[Việt Nam] Giọt Máu Chung Tình
Chương 19 : Nghĩ sự tình Đông Sơ riêng thán oán, Luận ân nghĩa, Động chủ quyết từ hôn
Ngày đăng: 22:52 27/05/20
Khi Đông Sơ ở trước khách phòng một mình với tên bộ hạ, thì ra vào thơ thẩn, đứng nghĩ ngồi suy, rồi thầm trách Thu Hà rằng: “Thu Hà ôi! Mi là con nhà đại gia vọng tộc, cũng tiếng một gái đức hạnh thuyền quyên, sao mi nỡ đem thói lãng hạnh bạc tình, mà phụ kẻ tình xưa nghĩa cũ. Thế thì mi quên lúc lương đình hội ngộ, đã cùng nhau căn dặn đến điều, thí thì mi quên lúc dưới nguyệt bên hoa, đã cùng nhau nặng lời thệ ước đó sao? Hay là mi tưởng ta mắc trôi nổi theo chốn chơn trời mặt biển, xa xuôi cách trở quan hà, làm cho mi nhọc công thán đợi năm chờ, nên mi dời lòng đổi dạ phải chăng? Hay là mi sợ cái sắc mi hương tàn phấn lợt, mà lỡ bề kết tóc xe tơ, nên mi vội vã kiếm nơi mà trao thân gởi phận? Hay là mi nghe người, lời ngon lẽ ngọt, nỉ non tiếng quyễn giọng kèn, làm cho mi xúc động tâm thần, mà cầm lòng chẳng đậu đó chăng, nhưng mà sự dời lòng đổi dạ, bội ước vong tình của mi đây chẳng hề làm cho ta xúc động tâm thần chút nào, và đeo phiền chuốc muộn chi hết. Ta chẳng hề để cái chí khí nam nhi nầy cho cái tình sắc dục kia nó buộc ràng kiềm chế.
Thu Hà ôi! Ta vì là vì chút tình thâm nghĩa trọng, và những lời thệ ước ngày xưa, mà phải lướt bụi băng rừng, xuống hang vào động, dẫu cho thiên lao vạn khổ cũng chẳng từ nan, ví dầu gặp cơn nguy hiểm thế nào, thì ta cũng dám lấy một gan đởm anh hùng mà đổi mạng sống nầy làm hi sanh, ngỏ cam một thác với tình, cho ân nghĩa vẹn tuyền thì cũng toại chí bình sanh, yên lòng sở nguyện.
Thu Hà ôi! Nhưng mà cái sở nguyện ấy đã làm cho ta ngày nay tính lộn tưởng lầm mà đến đây, vậy thì ta cũng chịu khó chống cặp mắt hữu tình nầy lên, chờ đến ngày mai, đặng coi cái người yểu điệu thuyền quyên là mi, phối hiệp lương duyên, động phòng huê chúc, và ta cũng vui lòng mà chúc mừng cho mi, vợ chồng đặng bách niên giai lão, tùng nhứt nhi chung, đặng từ đây sắp sau, khỏi mang cái tiếng sĩ tiết ô danh, rằng gái bạc tình lãng hạnh ấy nữa.”
Đông Sơ thầm trách như vậy một hồi rồi lại nằm nơi giường, đương tầm tư nghĩ nghị. Bỗng nghe tiếng nói nhỏ nhẽ bên tai rằng: Sự Thu Hà hứa hôn cùng Nhứt lang ấy thì việc còn khuất lấp, vì chưa thất tận mắt mình, nếu mình nóng nảy hốt tốt mà trách người, vậy e chưa đúng nhầm công lý. Phải để mà cùng suy tột nghĩ, đợi cho bằng cớ rõ ràng, chẳng nên nghe bốc một người, mà vội vã buông lời trách cứ. Nếu thiệt rằng Thu Hà đem lòng lợt lẻo, thì lỗi kia cho trách cũng đành. Ví bằng việc chẳng như lời, mà mình buộc một lỗi nặng nề cho kẻ liễu yếu đào thơ, vậy chẳng là oan người tội nghiệp? Xét lại trong lúc anh nàng muốn ép duyên tơ tóc, mà gả cho Vương Bích ngày xưa, nhưng nàng còn chặt dạ bền lòng, quyết giữ một lời thủy chung cho trọn nghĩa, vì vậy nên nàng từ hôn chẳng chịu, phải ra thân lưu lạc giang hồ và trôi nổi theo lượng biển sóng tình, kiếm chỗ ký túc thê thân, đặng lần lựa mà chờ ngày trùng phùng hội diện. Nay chỉ nghe một lời Nhứt lang nói đó, song chưa giáp đặng mặt nàng, nếu mình tin vội nghe lầm, thì sao cho phải một người trầm cơ thẩm đoán. Vả lại mình là một đứng trượng phu hào hiệp, mà chác chi những chuyện độ lượng hẹp hòi, theo lẽ quảng đại nhơn từ, nên ta chẳng nỡ để vậy mà điềm nhiên mặc thị. Nay trong lúc canh khuya vắng vẻ, ta xin thay mặt Thu Hà, đặng lấy lẽ công bình mà kêu nài ít lời cho minh bạch.
Cái tiếng ấy thỉnh thoảng bên tai văng vẳng, nghe càng sách hoạch rõ ràng, làm cho Đông Sơ đương lúc mơ màng, giựt mình mà tỉnh lại, thì là một tiếng lương tâm của Đông Sơ nói ra, chớ chẳng phải người nào xa lạ.
Cái tiếng lương tâm ấy cãi lẫy một hồi, làm cho Đông Sơ tỉnh ngộ mà rõ đặng một chánh lý rõ ràng, và những sự thầm trách trộm nghi chấp chứa trong lòng, bây giờ đã lần lần tan mất. Đó rồi Đông Sơ bước lại đứng dựa cửa sổ ngó ra, muốn kiếm Bạch Thu hà đặng dọ thăm tình ý. Song núi non mờ mịt, chẳng biết nơi nào. Xảy nghe tiếng gõ cửa phía sau, ngó lại thì thấy Hoàng Nhứt Lang chẩm hẩm bước vô, tay cầm một phong thơ và đi và nói:
“Xin lỗi cùng quan nhơn, tôi có một việc cẩn yếu, muốn hỏi quan nhơn, nên chẳng nệ lúc đêm vắng canh khuya đến đây làm cho nhọc lòng quan nhơn, xin quan nhơn miễn chấp.”
Đông Sơ nói: Túc hạ muốn hỏi việc chi, xin hãy nói nghe, nếu tôi có thể đợi lao, thì tôi cũng sẵn lòng phụ ích.
Nhứt lang nói: “Tôi xin hỏi quan nhơn một điều, khi quan nhơn ở tại Đông Kinh quan nhơn có biết một người gái tên là Bạch Thu hà chăng?”
Đông Sơ nghe hỏi thì lấy làm lạ, và tự nghĩ rằng: thế thì Nhứt lang nghi ngại điều chi, nên đến đây mà dọ thăm tình ý. Nghĩ vậy rồi day lại nói với Nhứt lang rằng: Phận gái là chỗ khuê môn bất xuất, cửa đóng then gài, xưa nay nam nữ bất thân, dễ chi mà rõ biết được người, dầu có biết cũng chẳng lẽ tôi buông lời thổ lộ,
Nhứt lang nói: Vậy tôi xin tỏ thiệt cùng ân nhân mới đây trẻ gia đinh của tôi lượm đặng một phong thơ dưới hang cổ tháp, đem trình cùng tôi, tôi chẳng rõ thơ chi liền giở thơ ra xem thử, thì thấy thơ ấy gởi cho quan nhơn, phía dưới có tên Bạch Thu Hà tự ký. Vì vậy nên tôi vội vả đến hỏi quan nhơn cho rõ căn do, nếu quan nhơn nói rằng chẳng biết Bạch Thu hà, thì thơ ấy ắt chẳng phải gởi cho quan nhơn, và tôi phải giữ thơ nầy đặng chờ người nhận lãnh.
Đông Sơ nghe nói thơ của Bạch Thu Hà gởi cho mình thì mừng rồi day lại nói với Nhứt lang rằng: Nếu quả thơ của Bạch Thu hà thì tôi tỏ thiệt cùng túc hạ, người ấy là người đã gá nghĩa nhơn duyên cùng tôi, khi ở Đông Kinh, song tôi mắc việc quân vụ đa đoan, nên chưa kịp tính bề hôn thú. Vậy nếu túc hạ vui lòng thì xin trao thơ ấy cho tôi xem thử. Nhứt lang liền trao thơ cho Đông Sơ xem, thì thấy quả thơ của Thu hà. Song thơ ấy là thơ trước khi Thu Hà xuống thuyền qua Hải Ninh, thì đưa cho thơ đồng, dặn chờ Đông Sơ tuần dương trở về thì giao lại. (Thơ ấy tự sự đã nói trước rồi, đây chẳng cần nhắc lại). Khi ấy Đông Sơ để trong túi áo, đến lúc lên thám sơn động, rớt mất không hay, nên gia đinh của Nhứt lang lượm đặng.
Đông Sơ xem rồi day lại nói với Nhứt lang rằng: Phải, thơ nầy là thơ của tôi khi ở Đông Kinh, và người nầy là người tình nghĩa của tôi đã có lời thệ ước, và gá nghĩa nhơn duyên như lời tôi đã tỏ cùng túc hạ khi nảy đó vậy.
Nhứt lang nghe nói thì nheo mày và tự nghĩ rằng: Nếu vậy thì tên bạch Thu hà trong thơ nầy với người mình sẽ cưới đây, hẳn là một người chẳng sai. Nhưng sao em là Nhị cô chẳng dò trong lóng đục, gạn hỏi sự tích cho rõ ràng, dễ lầm lỡ nhơn duyên của người, làm cho rẽ phụng lìa loan, vậy sao rằng phải, hay là em mình nó thấy người thất thân lưu lạc, mà có ý cậy thế ép duyên, rồi ẩn việc tình nghĩa cùng Đông Sơ, chẳng cho mình rõ. nay việc hiển nhiên bằng cớ, thì chẳng lẽ ta vì một gái ấy mà khỏa lấp lương tâm, và làm điều cường hôn đoạt lý cho đặng. Nghĩ rồi day lại nói với Đông Sơ rằng:
“Đây tôi xin tỏ thiệt cùng quan nhơn, người tôi sẽ cưới ngày mai nầy, danh tánh huê hương và căn do sự tích đều in như người trong thơ đó vậy, và tôi quả quyết là một người chẳng sai. Nay gặp quan nhơn đến đây, thật là người cũ duyên xưa, đã đặng trùng phùng hội diện. Vậy thì tôi xin tỏ thật lòng cùng quan nhơn, tôi nay quyết ý từ hôn, và đưa người ấy lại cho quan nhơn cho trọn niềm tình nghĩa.”
Đông Sơ nói: “Nếu túc hạ nói vậy, ra lý tôi cố ý đến đây đặng ph1 hoại nhơn duyên và đoạt tranh người hôn phối của túc hạ đó sao? Nếu như nàng ấy quả thiệt Bạch Thu hà mà người đã bằng lòng gá việc hôn nhơn cùng túc hạ rồi, thì sự tình nghĩa giao ước cùng tôi nhày xưa, nay đã xem dường trôi theo dòng nước. Vả lại tôi là một đứng đường đường nam tử, và trong thiên hạ chẳng thiếu chi thục nữ thuyền quyên, lẽ đâu tôi còn nhìn một người bội ước vong tình như vậy, mà kết làm lương duyên can lệ, và tôi chẳng hề chịu đem một danh giá anh hùng nầy, mà làm điều tranh đoạt hôn nhơn, là một điều rất nhục nhơ phi lý ấy đâu?
Nhứt lang nói: việc nầy tại em tôi là Nhị cô, ra đứng trao lời tác hiệp, buộc việc hơn nhơn, nhưng tôi chưa hề giáp đến mặt người, và cũng chẳng rõ là người ân tình của quan nhơn khi trước. nay quan nhơn đã gọi rằng chẳng chịu đem một danh giá anh hùng mà làm điều đoạt hôn phi nghĩa, thì tôi lẽ đâu vì một người hống nhan nhi nữ, mà làm cho mích ơn tri ngộ cùng quan nhơn, và làm cho bại hoại một danh giá trượng phu chí khí của tôi nữa sao? Nếu thật rằng quan nhơn chẳng chịu nhìn người ấy làm lương duyên, mà cho là kẻ bội ước vong tình, thì tôi đây xin tỏ một lời khẳng khái rằng: Tôi đã nhứt định hai điều: Một là tôi quyết ý từ hôn, hai là tôi sẽ cho người đưa nàng về quê hương xứ sở. Nhưng trước khi đưa nàng ra khỏi sơn động, tôi xin quan nhơn chịu phiền đi cùng tôi ra tại thạch đình, cho giáp mặt đôi đàng và gạn hỏi cho minh bạch sự tình, đặng ngày sau khỏi mang một khối sầu nghi phiền trách nơi dạ.
Nói rồi bước lại nắm tay Đông Sơ hai người dắt nhau ra đi một lượt.
Thu Hà ôi! Ta vì là vì chút tình thâm nghĩa trọng, và những lời thệ ước ngày xưa, mà phải lướt bụi băng rừng, xuống hang vào động, dẫu cho thiên lao vạn khổ cũng chẳng từ nan, ví dầu gặp cơn nguy hiểm thế nào, thì ta cũng dám lấy một gan đởm anh hùng mà đổi mạng sống nầy làm hi sanh, ngỏ cam một thác với tình, cho ân nghĩa vẹn tuyền thì cũng toại chí bình sanh, yên lòng sở nguyện.
Thu Hà ôi! Nhưng mà cái sở nguyện ấy đã làm cho ta ngày nay tính lộn tưởng lầm mà đến đây, vậy thì ta cũng chịu khó chống cặp mắt hữu tình nầy lên, chờ đến ngày mai, đặng coi cái người yểu điệu thuyền quyên là mi, phối hiệp lương duyên, động phòng huê chúc, và ta cũng vui lòng mà chúc mừng cho mi, vợ chồng đặng bách niên giai lão, tùng nhứt nhi chung, đặng từ đây sắp sau, khỏi mang cái tiếng sĩ tiết ô danh, rằng gái bạc tình lãng hạnh ấy nữa.”
Đông Sơ thầm trách như vậy một hồi rồi lại nằm nơi giường, đương tầm tư nghĩ nghị. Bỗng nghe tiếng nói nhỏ nhẽ bên tai rằng: Sự Thu Hà hứa hôn cùng Nhứt lang ấy thì việc còn khuất lấp, vì chưa thất tận mắt mình, nếu mình nóng nảy hốt tốt mà trách người, vậy e chưa đúng nhầm công lý. Phải để mà cùng suy tột nghĩ, đợi cho bằng cớ rõ ràng, chẳng nên nghe bốc một người, mà vội vã buông lời trách cứ. Nếu thiệt rằng Thu Hà đem lòng lợt lẻo, thì lỗi kia cho trách cũng đành. Ví bằng việc chẳng như lời, mà mình buộc một lỗi nặng nề cho kẻ liễu yếu đào thơ, vậy chẳng là oan người tội nghiệp? Xét lại trong lúc anh nàng muốn ép duyên tơ tóc, mà gả cho Vương Bích ngày xưa, nhưng nàng còn chặt dạ bền lòng, quyết giữ một lời thủy chung cho trọn nghĩa, vì vậy nên nàng từ hôn chẳng chịu, phải ra thân lưu lạc giang hồ và trôi nổi theo lượng biển sóng tình, kiếm chỗ ký túc thê thân, đặng lần lựa mà chờ ngày trùng phùng hội diện. Nay chỉ nghe một lời Nhứt lang nói đó, song chưa giáp đặng mặt nàng, nếu mình tin vội nghe lầm, thì sao cho phải một người trầm cơ thẩm đoán. Vả lại mình là một đứng trượng phu hào hiệp, mà chác chi những chuyện độ lượng hẹp hòi, theo lẽ quảng đại nhơn từ, nên ta chẳng nỡ để vậy mà điềm nhiên mặc thị. Nay trong lúc canh khuya vắng vẻ, ta xin thay mặt Thu Hà, đặng lấy lẽ công bình mà kêu nài ít lời cho minh bạch.
Cái tiếng ấy thỉnh thoảng bên tai văng vẳng, nghe càng sách hoạch rõ ràng, làm cho Đông Sơ đương lúc mơ màng, giựt mình mà tỉnh lại, thì là một tiếng lương tâm của Đông Sơ nói ra, chớ chẳng phải người nào xa lạ.
Cái tiếng lương tâm ấy cãi lẫy một hồi, làm cho Đông Sơ tỉnh ngộ mà rõ đặng một chánh lý rõ ràng, và những sự thầm trách trộm nghi chấp chứa trong lòng, bây giờ đã lần lần tan mất. Đó rồi Đông Sơ bước lại đứng dựa cửa sổ ngó ra, muốn kiếm Bạch Thu hà đặng dọ thăm tình ý. Song núi non mờ mịt, chẳng biết nơi nào. Xảy nghe tiếng gõ cửa phía sau, ngó lại thì thấy Hoàng Nhứt Lang chẩm hẩm bước vô, tay cầm một phong thơ và đi và nói:
“Xin lỗi cùng quan nhơn, tôi có một việc cẩn yếu, muốn hỏi quan nhơn, nên chẳng nệ lúc đêm vắng canh khuya đến đây làm cho nhọc lòng quan nhơn, xin quan nhơn miễn chấp.”
Đông Sơ nói: Túc hạ muốn hỏi việc chi, xin hãy nói nghe, nếu tôi có thể đợi lao, thì tôi cũng sẵn lòng phụ ích.
Nhứt lang nói: “Tôi xin hỏi quan nhơn một điều, khi quan nhơn ở tại Đông Kinh quan nhơn có biết một người gái tên là Bạch Thu hà chăng?”
Đông Sơ nghe hỏi thì lấy làm lạ, và tự nghĩ rằng: thế thì Nhứt lang nghi ngại điều chi, nên đến đây mà dọ thăm tình ý. Nghĩ vậy rồi day lại nói với Nhứt lang rằng: Phận gái là chỗ khuê môn bất xuất, cửa đóng then gài, xưa nay nam nữ bất thân, dễ chi mà rõ biết được người, dầu có biết cũng chẳng lẽ tôi buông lời thổ lộ,
Nhứt lang nói: Vậy tôi xin tỏ thiệt cùng ân nhân mới đây trẻ gia đinh của tôi lượm đặng một phong thơ dưới hang cổ tháp, đem trình cùng tôi, tôi chẳng rõ thơ chi liền giở thơ ra xem thử, thì thấy thơ ấy gởi cho quan nhơn, phía dưới có tên Bạch Thu Hà tự ký. Vì vậy nên tôi vội vả đến hỏi quan nhơn cho rõ căn do, nếu quan nhơn nói rằng chẳng biết Bạch Thu hà, thì thơ ấy ắt chẳng phải gởi cho quan nhơn, và tôi phải giữ thơ nầy đặng chờ người nhận lãnh.
Đông Sơ nghe nói thơ của Bạch Thu Hà gởi cho mình thì mừng rồi day lại nói với Nhứt lang rằng: Nếu quả thơ của Bạch Thu hà thì tôi tỏ thiệt cùng túc hạ, người ấy là người đã gá nghĩa nhơn duyên cùng tôi, khi ở Đông Kinh, song tôi mắc việc quân vụ đa đoan, nên chưa kịp tính bề hôn thú. Vậy nếu túc hạ vui lòng thì xin trao thơ ấy cho tôi xem thử. Nhứt lang liền trao thơ cho Đông Sơ xem, thì thấy quả thơ của Thu hà. Song thơ ấy là thơ trước khi Thu Hà xuống thuyền qua Hải Ninh, thì đưa cho thơ đồng, dặn chờ Đông Sơ tuần dương trở về thì giao lại. (Thơ ấy tự sự đã nói trước rồi, đây chẳng cần nhắc lại). Khi ấy Đông Sơ để trong túi áo, đến lúc lên thám sơn động, rớt mất không hay, nên gia đinh của Nhứt lang lượm đặng.
Đông Sơ xem rồi day lại nói với Nhứt lang rằng: Phải, thơ nầy là thơ của tôi khi ở Đông Kinh, và người nầy là người tình nghĩa của tôi đã có lời thệ ước, và gá nghĩa nhơn duyên như lời tôi đã tỏ cùng túc hạ khi nảy đó vậy.
Nhứt lang nghe nói thì nheo mày và tự nghĩ rằng: Nếu vậy thì tên bạch Thu hà trong thơ nầy với người mình sẽ cưới đây, hẳn là một người chẳng sai. Nhưng sao em là Nhị cô chẳng dò trong lóng đục, gạn hỏi sự tích cho rõ ràng, dễ lầm lỡ nhơn duyên của người, làm cho rẽ phụng lìa loan, vậy sao rằng phải, hay là em mình nó thấy người thất thân lưu lạc, mà có ý cậy thế ép duyên, rồi ẩn việc tình nghĩa cùng Đông Sơ, chẳng cho mình rõ. nay việc hiển nhiên bằng cớ, thì chẳng lẽ ta vì một gái ấy mà khỏa lấp lương tâm, và làm điều cường hôn đoạt lý cho đặng. Nghĩ rồi day lại nói với Đông Sơ rằng:
“Đây tôi xin tỏ thiệt cùng quan nhơn, người tôi sẽ cưới ngày mai nầy, danh tánh huê hương và căn do sự tích đều in như người trong thơ đó vậy, và tôi quả quyết là một người chẳng sai. Nay gặp quan nhơn đến đây, thật là người cũ duyên xưa, đã đặng trùng phùng hội diện. Vậy thì tôi xin tỏ thật lòng cùng quan nhơn, tôi nay quyết ý từ hôn, và đưa người ấy lại cho quan nhơn cho trọn niềm tình nghĩa.”
Đông Sơ nói: “Nếu túc hạ nói vậy, ra lý tôi cố ý đến đây đặng ph1 hoại nhơn duyên và đoạt tranh người hôn phối của túc hạ đó sao? Nếu như nàng ấy quả thiệt Bạch Thu hà mà người đã bằng lòng gá việc hôn nhơn cùng túc hạ rồi, thì sự tình nghĩa giao ước cùng tôi nhày xưa, nay đã xem dường trôi theo dòng nước. Vả lại tôi là một đứng đường đường nam tử, và trong thiên hạ chẳng thiếu chi thục nữ thuyền quyên, lẽ đâu tôi còn nhìn một người bội ước vong tình như vậy, mà kết làm lương duyên can lệ, và tôi chẳng hề chịu đem một danh giá anh hùng nầy, mà làm điều tranh đoạt hôn nhơn, là một điều rất nhục nhơ phi lý ấy đâu?
Nhứt lang nói: việc nầy tại em tôi là Nhị cô, ra đứng trao lời tác hiệp, buộc việc hơn nhơn, nhưng tôi chưa hề giáp đến mặt người, và cũng chẳng rõ là người ân tình của quan nhơn khi trước. nay quan nhơn đã gọi rằng chẳng chịu đem một danh giá anh hùng mà làm điều đoạt hôn phi nghĩa, thì tôi lẽ đâu vì một người hống nhan nhi nữ, mà làm cho mích ơn tri ngộ cùng quan nhơn, và làm cho bại hoại một danh giá trượng phu chí khí của tôi nữa sao? Nếu thật rằng quan nhơn chẳng chịu nhìn người ấy làm lương duyên, mà cho là kẻ bội ước vong tình, thì tôi đây xin tỏ một lời khẳng khái rằng: Tôi đã nhứt định hai điều: Một là tôi quyết ý từ hôn, hai là tôi sẽ cho người đưa nàng về quê hương xứ sở. Nhưng trước khi đưa nàng ra khỏi sơn động, tôi xin quan nhơn chịu phiền đi cùng tôi ra tại thạch đình, cho giáp mặt đôi đàng và gạn hỏi cho minh bạch sự tình, đặng ngày sau khỏi mang một khối sầu nghi phiền trách nơi dạ.
Nói rồi bước lại nắm tay Đông Sơ hai người dắt nhau ra đi một lượt.