[Việt Nam] Giọt Máu Chung Tình
Chương 5 : Gửi mật thư ám kế hại anh hùng, Xin thí võ diễn trường tranh tấn sĩ
Ngày đăng: 22:52 27/05/20
Khi Đông Sơ nạp vở trường văn rồi về nhà thì trời đã tối. Cơm nước vừa xong, kế Tú tài Trần Đạt đến viếng. Hai người liền dắt tay ra nhà sau chuyện trò đàm đạo.
Trần Đạt nói: “Hôm nay anh đã vào trường văn rồi, vậy chẳng biết anh có tính vào diễn trường mà thí võ chăng?”
Đông Sơ nói: “Hội công danh ai ai cũng muốn, lẽ đâu tôi dám bỏ qua, còn quới hữu tính lẽ nào, xin nói cho tôi biết với.”
Trần Đạt nói: Tôi vẫn tài còn sơ siễn, sức khó tranh đua, khoa nầy tôi chịu nhịn thua, để khoa khác sẽ ra ứng thí, cũng chẳng muộn.”
Đông Sơ nói: “Hổm nay quới hữu có điều chi lạ chăng? Xin nói cho tôi biết với.”
Trần Đạt nói: “Không chi lạ hơn là con ma bốn cẳng.”
Đông Sơ nghe nói thì ngó Trần Đạt và lấy làm lạ rồi hỏi: “Mà quả thật có ma sao?”
– Quả thật như lời thằng thơ đồng của anh nó nói với tôi hôm nọ.
– Mà con ma ấy làm sao? Xin quới hữu thuật lại cho tôi nghe hử?
Trần Đạt nói: “Đêm hôm qua khi tôi đi ngủ, tôi có để một cây gươm trên đầu giường, rồi tắt đèn lại nằm, và lóng nghe cho tới canh tư, song tôi không thấy một chi lạ hết, tôi mới nghĩ thầm rằng: Đó là chuyện huyễn hoặc, người ta đặt điều đặng nhát mình chơi vậy thôi, chớ ma đâu có. Đó rồi tôi ngủ cho tới sáng, qua đêm sau tôi cũng còn hồ nghi, nên khi vô buồng đi ngủ cũng có để cây gươm trên đầu giường, rồi nằm lẳng lặng làm thinh, mở mắt lóng tai mà nghe coi có chi lạ không. Xảy nghe trống trở canh ba, mà không thấy chi hết, hai con mắt đã sập mi mơ màng, bỗng nghe một cái sạt, trên rường nhà, tôi giựt mình mở mắt trao tráo và ngóc đầu dậy đặng nghe cho rõ. Kế nghe một cái rẹt nữa, nghe rõ thì là dơi đáp muỗi nó bay, đó rồi tôi cũng nằm lẳng lặng hàm thinh một hồi lâu, thoạt nghe bên vách kia có tiếng rọc rạch, té ra rõ lại thì chuột chạy dơi bay, mà nó làm cho tôi hồ nghi không ngủ đặng.
Đó tôi nằm lại một hồi, mới vừa thiểu thiểu, thoạt nghe tiếng cục kịch nơi cửa buồng, tôi lật đật ngóc cổ dậy dòm, thì thấy một bóng đen thui, thấp thoáng qua cửa, tôi nói thầm rằng phen này chắc nó. Kế đó cái bàn nhỏ trên đầu giường tôi thinh không ngã xuống; thì tôi thấy bóng cón quái ấy xốc lại giường như muốn chụp tôi, tức thì tôi nhảy xuống giường rồi huơ gươm chém xuống một cái rất mạnh, làm cho cây gươm lút vào trong vách, thì thấy con quái ấy tràn qua phía giường tôi rồi mất.
Tôi liền nhảy lại chận ngang cửa buồng, một tay nắm cánh cửa, một tay cầm gươm mà thủ, sợ con quái ấy thoát ra. Đó tôi la lên: Bớ người ta, ma, ma, xin đến tiếp cứu.
Mấy người ở gần nghe la thì chạy lại, kẻ cầm hèo, người xách gậy, đứng lấp ló nơi cửa, mà chẳng dám vô, tôi lại la lên rằng: Tôi đã chận đặng nó đây, hãy đem đèn vô, cho kíp.
Mấy người liền đem đèn vô, rồi hỏi: Nó đâu, nó đâu? Tô nói: Nó đây. nó đây. Họ bèn đem đèn lại rọi vào buồng, thì không thấy chi hết. Tôi nổi nóng nhảy lại lấy đèn rọi dưới giường, cũng chẳng thấy chi. Tôi bèn rọi dựa cái tủ để nơi góc giường, thì thấy một đống đen thui, hai mắt ngó lườm lườm, hơi thở khò khè, nhăn răng trắng nhẽ. Tôi liền la lên, nó đây, nó đây, mấy người đem đèn rọi coi, thì thấy rõ ràng một con chó mực đương ngồi xo ró. Ai nấy ngó nhau chưng hửng, rồi cười ngất một hồi. Còn tôi thì bị thức trọn hai đêm, mắt đổ hào quang, nghĩ cũng tức cười, mà cười không ra tiếng,”
(Vậy tôi xin phê dưới đây ít hàng cho khán quan xem chơi giải muộn).
Quái thay!
Khi đương tối tăm sớ sết, thì tưởng chó là ma; chừng xem tường tận rõ ràng, mới biết ma là chó.
Khẳng khái bấy tên Tú tài huơ quyền mà dụng võ; giận đổ thần hung.
Tội nghiệp thay con chó mực, bị đánh đã kinh hồn, sợ ngồi cú rũ.
Té ra trót đêm chẳng ngủ, anh Tú tài kia khủn khỉnh nghĩ cười thầm.
Ôi thôi! Nhắm thế không xong, con chó nọ nguýt đuôi rồi khự mất.
Trần Đạt nói rồi ngước mặt cười hà hà, Đông Sơ thấy vậy cũng tức cười nôn ruột. Đó rồi hai người dắt nhau ra trước thơ phòng. Đông Sơ liếc mắt bỗng thấy một cái thơ, để trên bàn và một ngọn dao cắm lủng ngang thơ, lút tuốt xuống ván, thì sững sờ và lấy làm một sự quái gở. Liền bước lại xem phong thơ ấy, thấy ngoài bao đề: “Võ Đông Sơ khai quán”, tức thì lấy thơ xé ra coi, coi rồi sắc mặt liền đổi.
Trần Đạt thấy vậy bước lại và hỏi: “Chẳng biết thơ ấy có sự chi lạ chăng! Mà sao tôi xem anh dường có sắc kinh nghi tràn ra nét mặt?”
Đông Sơ thấy hỏi thì trao thơ ấy cho Trần Đạt xem, trong thơ nói như vầy:
“Võ Đông Sơ, ta nói cho ngươi biết rằng: khoa Tấn sĩ nầy ngươi phải nhượng lại cho ta, thì ta chẳng những cám ơn ngươi, mà lại còn trọng đáp. Bằng không, thì trước khi tới diễn trường, ngươi sẽ như cái thơ với cây đao nầy vậy. Chừng ấy ta e cho ngươi ăn năn đã muộn.
Ký tên: Tây thôn võ sĩ”
Xem thơ rồi, hai người ngó nhau sững sờ, dường như sấm nỗ vang tai, đất bằng dậy sóng.
Trần Đạt hỏi: Vậy mà trong ý anh có biết chắc ai gửi thơ nầy không?
Đông Sơ nói: tôi chẳng quen với ai, và cũng chẳng biết ai hết, song theo ý tôi tưởng, cái thơ nầy là như một cái hình giả kia, để nhát chim sẻ sẻ đó thôi. Còn tôi thì chẳng hề nhượng khoa nầy cho ai cả, thà tới diễn trường, tranh tài đấu lực, chừng đó đắc thất sẽ hay, lẽ đâu vì một lá thơ nầy, mà làm cho lòng công danh bảng lãng.
Trần Đạt nói: song anh cũng phải cần thận đề phòng, những điều bất trắc.
Đông Sơ gặt đầu và nói: phải, nhưng cái thơ rơi đó là một sự dọa dẫm của kẻ tiểu nhơn, chớ chẳng phải người anh hùng khí phách, xin quới hữu chớ nhọc lòng nghi ngại.
Đó rồi Trần Đạt từ giã trở về; Đông Sơ vào phòng còn nằm suy nghĩ, xảy nghe ngoài cửa có tiếng cục kịch, kế nghe một tiếng dường như vật chi rơi xuống đất vậy.
Đông Sơ lật đật đem đèn ra coi, thì thấy một phong thơ rớt nằm dựa cửa, liền bước lại lượm lên rồi giở ra coi thì thấy trong thơ nói như vầy:
” Kính vài lời cùng quan nhơn rõ, trước khi ra diễn tràng, đi ngang qua một cây đại thọ dựa ngả ba đường, thì xin phải đề phòng cẩn thận, vì chỗ đó sẽ có người tàng ẩ mà ám hại quan nhơn, chẳng nên sơ thất mà mang họa.
Nay kính”
Thơ này không ký tên ai hết.
Đông Sơ xem rồi nghĩ nghĩ trong trí một hồi mà cũng không hiểu thơ ấy của ai, thật là một điều rất lạ, rồi tâm tư tự nghĩ rằng: lạ thay! như cái thơ trước là thơ hăm dọa người nên không ký tên cũng phải, chi như thơ nầy là thơ làm ơn, song chẳng rõ cớ nào mà không ký tên, cũng một điều rất quái. Hai cái thơ ấy làm cho Đông Sơ, trót đêm bối rối trí khôn, đứng nghĩ ngồi suy, nằm chẳng an nơi, ngủ không ngon giấc.
Bỗng nghe Đông Thành văng vẳng trống đã sang tư, gương thỏ bóng tà, inh ỏi canh gà giục thúc. Đông Sơ bèn thức dậy trà nước, rồi sắm sửa y cân, thì thơ đồng đã thắng ngựa gác yên, đứng chờ trước ngõ. Đông Sơ nai nịt xong rồi, bèn giục ngựa lên đường, nhắm diễn trường thẳng tới. Còn thơ đồng và Trần Đạt cũng thỉnh thoảng nối gót theo sau.
Khi Đông Sơ đi đặng một đỗi, gần tới ngà ba, liếc thấy phía trước xa xa, có một tàng đại thọ rất lớn, thì nhớ trong cái thơ sau có dặn rằng hễ tới đây thì phải đề phòng cẩn thận. Vì vậy nên Đông Sơ rút gươm cầm nơi tay, rồi giục ngựa chạy mau, còn mắt thì nhắm trước xem sau, thấy hai bên đường bụi cao bụi thấp, trong lúc bóng trăng nhấp nhàn, cây cỏ lờ mờ, dặm quang sang, bương bả bước anh hùng; cương tuấn mã xông pha đường lữ khách. Kế đó thình lình bỗng nghe một cái rẹt, thì thấy trước mặt đã xẹt ra một mũi tên, phăng phăng thẳng tới, Đông Sơ liền né qua, thì mũi tên ấy bay xớt bên tai, rồi đi tuốt. Tên nọ vừa qua, kế một mũi tên nữa bay tới. Đông Sơ liền lấy gươm gạt một cái, tên ấy rớt ngay xuống đất. Đó rồi Đông Sơ quất ngựa chạy tuốt ra diễn trường. Chạy đặng một đỗi xa xa, thì trời đã rạng đông, ác vừa lộ bóng.
Đông Sơ liền gò cương dừng ngựa, rảo mắt ngó quanh, bỗng thấy bên thành, cỏ cây lúp xúp, người ngựa lao xao, chính giữa có một đài cao, trước mái cặm một cây long kỳ gió bay phưởng phất, hai bên giáo gươm la liệt, quân ngũ sắp hàng, ấy là một chỗ diễn trường, xem rất nghiêm trang tề chỉnh. Kế nghe trống chiêng inh ỏi, gióng đủ ba hồi, thì thấy ba vị đại thần, cưỡi ngựa bước ra, rồi lên diễn trường mà ngồi, xem rất oai nghi lẫm liệt, đó là ba vi giám khảo. Còn chung quanh diễn trường, nào là nho sĩ, nào là võ sanh, kẻ ở thành thị, người trong thôn lý, dắt nhau náo nức đến xem, đứng đã chật đường, đông dường nhóm chợ.
Xảy thấy phía Nam thoạt ra một người cưỡi ngựa hồng lô, tướng mạo khôi ngô, y cân tề chỉnh, giục ngựa thẳng ra trước diễn trường, rồi một tay gò cương, một tay chống nạnh, đứng cách kiêu hãnh nghiêm trang, rồi rảo lại đi qua, xem rất xuê xoang oai võ.
(Liệt vị khán quan xem tới đây thế cũng ấm ức trông mong, mà coi người cưỡi ngựa hồng lô nầy là ai cho biết. Nhưng mà người nầy chẳng lạ, vốn tôi đã nói ló một sự tích xán qua trong khoảng trước đây, song tôi còn núp ngòi bút mà ẩn danh, làm cho liệt vị khán quan nhọc lòng trông đợi chơi trong một giây phút. Vậy tôi xin dẹp cái diễn trường lại đó một chút, đặng chỉ người cưỡi ngựa hồng lô nầy cho khán quan rõ trước.)
Nguyên người nầy tên là Bạch Xuân Phương, vẫn là con một vị Binh bộ Thượng thư ở tại Tây viên, là anh ruột của một vị tiểu thơ Bạch Thu Hà, tôi đã nói trong hồi trước.
Nguyên cách hai ngày trước, Bạch Xuân Phương nghe Võ Đông Sơ ra tranh Võ khoa Tấn sĩ, thì kêu một tên bộ hạ tâm phúc là Hồ Hợi, vào thơ phòng mà dặn rằng: “Nội đêm nay ngươi phải ra núp tại ngã ba cây đại thọ, đặng chờ Đông Sơ đi qua mà giết cho được, trước khi nó tới diễn trường, chẳng nên sơ thất.” Chẳng dè tiểu thơ Bạch Thu Hà đứng sau bình phong lắng tai nghe, biết anh mình thiết kế mà ám hại Đông Sơ, đặng tranh khoa tấn sĩ, thì lật đật trở lại tư phòng, rồi thầm lo trộm nghĩ rằng:
“Vả Đông Sơ là người đã thi ân cứu mạng của mình trong lúc gặp thằng cường bạo tại Quan Âm Các, và lại là một người hào ba phong nhã, đáng mặt thiên tài, nếu tạ thị bàng quan, mà điềm nhiên đi, thì chẳng những mình là ra kẻ vô tình, để cho anh mình hại một vị anh hùng tuấn kiệt, thì lòng nầy sao nỡ.”
Tiểu thơ nghĩ như vậy. liền lại văn phòng viết một cái tư thơ, rồi sai con thể nữ tâm phúc, biểu đem thơ ấy lập tức bỏ lại trước cửa Đông Sơ, đặng cứu người cho khỏi lâm đại họa. Song không cho Đông Sơ biết mình là ai. Nên không ký tên thơ ấy. Vì vậy Đông Sơ mới khỏi lâm cái mũi tên độc thủ trong lúc tăm tối giữa đường.
Còn anh Bạch Thu Hà là Xuân Phương chắc là Đông Sơ thế nào cũng chẳng thoát khỏi mũi tên kia ghim vào gan ruột, nên khi cưỡi ngựa tới diễn trường, thì coi bộ hiu hiu tự đắc.
(Tới đây xin tiếp luôn theo khoảng trên đã nói khi nẩy)
Trong lúc Bạch Xuân Phương đứng trước diễn tràng rảo mắt ngó 4 phía, bỗng thấy Võ Đông Sơ cưỡi ngựa đứng phía bên kia, thì sẫu ruột nhăn mày sững sờ và lấy làm lạ, chẳng dè Đông Sơ thoát khỏi cái độc kế mà tới đặng diễn trường! Kế nghe trên diễn đài một vị giám quan kêu tên Bạch Xuân Phương vào trường ứng thí.
Bạch Xuân Phương lật lật bước tới cúi đầu thi lễ rồi lấy cung tên cưỡi ngựa chạy một vòng, nhắm kim tiền mà bắn, bắn 2 mũi đầu đều lọt vào lổ kim tiền, còn mũi thứ ba thì trúng ngoài vành mà thôi, không vô lổ đặng.
Kế tới phiên Đông Sơ cũng cưỡi ngựa chạy một vòng, rồi dương giáp tên nhắm kim tiền, xạ luôn 3 mũi đều vô lổ hết. Các người coi đều khen hay.
Đông Sơ quày ngựa lại trước diễn trường cúi đầu, rồi trở ra một bên mà đứng. Xảy thấy Xuân Phương cưỡi ngựa ra thưa với 3 vị giám khảo rằng: “Đông Sơ chẳng phải giỏi, ấy là may mà trúng đó thôi. Như Đông Sơ thiệt tài, thì tôi xin thí võ, chừng ấy mới biết sức hơn thua, biết tài cao thấp.”
Ba vị chủ khảo thấy Xuân Phương kêu nài, thì hạ lệnh cho, nhưng không dùng gươm giáo thiệt, e rủi thương nhằm tánh mạng, phải dùng trường côn vấn giẻ hai đầu mà thôi; đó rồi truyền quân sắm sửa hai cây, cân phân bằng nhau, để trước diễn trường cho hai người lựa chọn.
Đông Sơ nhường cho Xuân Phương lấy trước, rồi Đông Sơ lấy sau. Bỗng nghe trên đài giục trống ba hồi, vừa dứt thì hai người mới ra tay thủ đoạn.
Nguyên Bạch Xuân Phương bộ tướng dềnh dàng, vóc hình cao lớn, còn Đông Sơ thì nhỏ hơn vài phân, ước một mười một tám vậy. Vì vậy nên Xuân Phương chắc ý, thế nào cũng thắng đặng Đông Sơ, khoa tấn sĩ nầy sẽ vào tay mình chớ ai dám vô mà tranh đặng. Còn hai bên diễn trường thấy Xuân Phương sức lực mạnh mẽ bộ tướng dềnh dàng, thì ai ai cũng nghi sợ cho Đông Sơ không hề thắng nổi.
Khi hai người thủ hai ngọn trường côn rồi xáp lại, kẻ đánh người đâm, kẻ gạt người đỡ, xem thấy hai ngọn trường côn qua lại liền vo, tới lui vùn vụt, làm cho cát dậy bụi bay xung xăng, mù mịt như khói. Đánh nhau một hồi như lưỡng hổ hạ san, dường giao long xuất hải, làm cho hai bên diễn đường, ai ai đều lẳng lặng làm thinh, mắt ngó chăm chăm xem thôi sửng sốt.
Kế đó Đông Sơ quày ngựa nhảy ra, thì Xuân Phương đổi qua miếng phi tiên, tai tay nắm đầu roi trường côn, vụt vụt như chóng chóng, chơn thì giục ngựa xốc tới, coi thế dữ dằn. Còn Đông Sơ thì rảo ngựa chạy quanh, như gà kia xỏ lá.
Xuân Phương cứ huơ côn vụt vụt xốc tới, thiên hạ ai ai cũng chắc lưỡi lắc đầu, sợ cho Đông Sơ sức yếu tài sơ mà cự địch không nổi. Chẳng dè Đông Sơ thình lình quày ngựa lại lẹ làng, rồi huơ côn bắt ngọn roi của Xuân Phương một cái rất mạnh, đến đỗi ngọn roi của Xuân Phương đương vụt vụt như giông, bỗng chút văng ra xa hơn 4 trượng, làm cho Xuân Phương và ngựa day ngang như buồm kia bị gió thổi mạnh đứt lèo, làm cho ghe day theo mà muốn lật đi vậy, rồi mắt đổ hào quang, cả tay và chơn đều rúng động.
Đông Sơ thừa dịp ấy, hai chơn nhảy đứng trên lưng ngựa mình, rồi đạp một cái nhảy phóc qua hất Xuân Phương một roi, té nhào xuống đất, ngó lại thì Đông Sơ đã ngồi trơ trơ trên ngựa hồng lô, nhởn nhởn nhơ nhơ, hình như Tiết Nhơn Quí ở nơi Sơn Đông, cưỡi ngựa Huỳnh phiêu, dường như Lũ Phụng Tiên đứng trước Viên môn, tay gò xích thố. Cả thảy hai bên diễn trường đều la lớn lên một tiếng hay, hay, như sấm dạy vang tai, rồi dần dần vỗ tay lốp bốp như pháo nổ. Miếng nầy gọi là “Đại bàng phi thạch động, Sư tử thượng lầu đài”. Đó rồi Đông Sơ cưỡi ngựa thẳng tới trước diễn trường cúi đầu mà từ tạ.
Còn Bạch Xuân Phương bị té một cái, làm cho trật mũ rớt khăn, rồi xẽn lẽn ra về, như Tào A Man thất trận.
Trần Đạt nói: “Hôm nay anh đã vào trường văn rồi, vậy chẳng biết anh có tính vào diễn trường mà thí võ chăng?”
Đông Sơ nói: “Hội công danh ai ai cũng muốn, lẽ đâu tôi dám bỏ qua, còn quới hữu tính lẽ nào, xin nói cho tôi biết với.”
Trần Đạt nói: Tôi vẫn tài còn sơ siễn, sức khó tranh đua, khoa nầy tôi chịu nhịn thua, để khoa khác sẽ ra ứng thí, cũng chẳng muộn.”
Đông Sơ nói: “Hổm nay quới hữu có điều chi lạ chăng? Xin nói cho tôi biết với.”
Trần Đạt nói: “Không chi lạ hơn là con ma bốn cẳng.”
Đông Sơ nghe nói thì ngó Trần Đạt và lấy làm lạ rồi hỏi: “Mà quả thật có ma sao?”
– Quả thật như lời thằng thơ đồng của anh nó nói với tôi hôm nọ.
– Mà con ma ấy làm sao? Xin quới hữu thuật lại cho tôi nghe hử?
Trần Đạt nói: “Đêm hôm qua khi tôi đi ngủ, tôi có để một cây gươm trên đầu giường, rồi tắt đèn lại nằm, và lóng nghe cho tới canh tư, song tôi không thấy một chi lạ hết, tôi mới nghĩ thầm rằng: Đó là chuyện huyễn hoặc, người ta đặt điều đặng nhát mình chơi vậy thôi, chớ ma đâu có. Đó rồi tôi ngủ cho tới sáng, qua đêm sau tôi cũng còn hồ nghi, nên khi vô buồng đi ngủ cũng có để cây gươm trên đầu giường, rồi nằm lẳng lặng làm thinh, mở mắt lóng tai mà nghe coi có chi lạ không. Xảy nghe trống trở canh ba, mà không thấy chi hết, hai con mắt đã sập mi mơ màng, bỗng nghe một cái sạt, trên rường nhà, tôi giựt mình mở mắt trao tráo và ngóc đầu dậy đặng nghe cho rõ. Kế nghe một cái rẹt nữa, nghe rõ thì là dơi đáp muỗi nó bay, đó rồi tôi cũng nằm lẳng lặng hàm thinh một hồi lâu, thoạt nghe bên vách kia có tiếng rọc rạch, té ra rõ lại thì chuột chạy dơi bay, mà nó làm cho tôi hồ nghi không ngủ đặng.
Đó tôi nằm lại một hồi, mới vừa thiểu thiểu, thoạt nghe tiếng cục kịch nơi cửa buồng, tôi lật đật ngóc cổ dậy dòm, thì thấy một bóng đen thui, thấp thoáng qua cửa, tôi nói thầm rằng phen này chắc nó. Kế đó cái bàn nhỏ trên đầu giường tôi thinh không ngã xuống; thì tôi thấy bóng cón quái ấy xốc lại giường như muốn chụp tôi, tức thì tôi nhảy xuống giường rồi huơ gươm chém xuống một cái rất mạnh, làm cho cây gươm lút vào trong vách, thì thấy con quái ấy tràn qua phía giường tôi rồi mất.
Tôi liền nhảy lại chận ngang cửa buồng, một tay nắm cánh cửa, một tay cầm gươm mà thủ, sợ con quái ấy thoát ra. Đó tôi la lên: Bớ người ta, ma, ma, xin đến tiếp cứu.
Mấy người ở gần nghe la thì chạy lại, kẻ cầm hèo, người xách gậy, đứng lấp ló nơi cửa, mà chẳng dám vô, tôi lại la lên rằng: Tôi đã chận đặng nó đây, hãy đem đèn vô, cho kíp.
Mấy người liền đem đèn vô, rồi hỏi: Nó đâu, nó đâu? Tô nói: Nó đây. nó đây. Họ bèn đem đèn lại rọi vào buồng, thì không thấy chi hết. Tôi nổi nóng nhảy lại lấy đèn rọi dưới giường, cũng chẳng thấy chi. Tôi bèn rọi dựa cái tủ để nơi góc giường, thì thấy một đống đen thui, hai mắt ngó lườm lườm, hơi thở khò khè, nhăn răng trắng nhẽ. Tôi liền la lên, nó đây, nó đây, mấy người đem đèn rọi coi, thì thấy rõ ràng một con chó mực đương ngồi xo ró. Ai nấy ngó nhau chưng hửng, rồi cười ngất một hồi. Còn tôi thì bị thức trọn hai đêm, mắt đổ hào quang, nghĩ cũng tức cười, mà cười không ra tiếng,”
(Vậy tôi xin phê dưới đây ít hàng cho khán quan xem chơi giải muộn).
Quái thay!
Khi đương tối tăm sớ sết, thì tưởng chó là ma; chừng xem tường tận rõ ràng, mới biết ma là chó.
Khẳng khái bấy tên Tú tài huơ quyền mà dụng võ; giận đổ thần hung.
Tội nghiệp thay con chó mực, bị đánh đã kinh hồn, sợ ngồi cú rũ.
Té ra trót đêm chẳng ngủ, anh Tú tài kia khủn khỉnh nghĩ cười thầm.
Ôi thôi! Nhắm thế không xong, con chó nọ nguýt đuôi rồi khự mất.
Trần Đạt nói rồi ngước mặt cười hà hà, Đông Sơ thấy vậy cũng tức cười nôn ruột. Đó rồi hai người dắt nhau ra trước thơ phòng. Đông Sơ liếc mắt bỗng thấy một cái thơ, để trên bàn và một ngọn dao cắm lủng ngang thơ, lút tuốt xuống ván, thì sững sờ và lấy làm một sự quái gở. Liền bước lại xem phong thơ ấy, thấy ngoài bao đề: “Võ Đông Sơ khai quán”, tức thì lấy thơ xé ra coi, coi rồi sắc mặt liền đổi.
Trần Đạt thấy vậy bước lại và hỏi: “Chẳng biết thơ ấy có sự chi lạ chăng! Mà sao tôi xem anh dường có sắc kinh nghi tràn ra nét mặt?”
Đông Sơ thấy hỏi thì trao thơ ấy cho Trần Đạt xem, trong thơ nói như vầy:
“Võ Đông Sơ, ta nói cho ngươi biết rằng: khoa Tấn sĩ nầy ngươi phải nhượng lại cho ta, thì ta chẳng những cám ơn ngươi, mà lại còn trọng đáp. Bằng không, thì trước khi tới diễn trường, ngươi sẽ như cái thơ với cây đao nầy vậy. Chừng ấy ta e cho ngươi ăn năn đã muộn.
Ký tên: Tây thôn võ sĩ”
Xem thơ rồi, hai người ngó nhau sững sờ, dường như sấm nỗ vang tai, đất bằng dậy sóng.
Trần Đạt hỏi: Vậy mà trong ý anh có biết chắc ai gửi thơ nầy không?
Đông Sơ nói: tôi chẳng quen với ai, và cũng chẳng biết ai hết, song theo ý tôi tưởng, cái thơ nầy là như một cái hình giả kia, để nhát chim sẻ sẻ đó thôi. Còn tôi thì chẳng hề nhượng khoa nầy cho ai cả, thà tới diễn trường, tranh tài đấu lực, chừng đó đắc thất sẽ hay, lẽ đâu vì một lá thơ nầy, mà làm cho lòng công danh bảng lãng.
Trần Đạt nói: song anh cũng phải cần thận đề phòng, những điều bất trắc.
Đông Sơ gặt đầu và nói: phải, nhưng cái thơ rơi đó là một sự dọa dẫm của kẻ tiểu nhơn, chớ chẳng phải người anh hùng khí phách, xin quới hữu chớ nhọc lòng nghi ngại.
Đó rồi Trần Đạt từ giã trở về; Đông Sơ vào phòng còn nằm suy nghĩ, xảy nghe ngoài cửa có tiếng cục kịch, kế nghe một tiếng dường như vật chi rơi xuống đất vậy.
Đông Sơ lật đật đem đèn ra coi, thì thấy một phong thơ rớt nằm dựa cửa, liền bước lại lượm lên rồi giở ra coi thì thấy trong thơ nói như vầy:
” Kính vài lời cùng quan nhơn rõ, trước khi ra diễn tràng, đi ngang qua một cây đại thọ dựa ngả ba đường, thì xin phải đề phòng cẩn thận, vì chỗ đó sẽ có người tàng ẩ mà ám hại quan nhơn, chẳng nên sơ thất mà mang họa.
Nay kính”
Thơ này không ký tên ai hết.
Đông Sơ xem rồi nghĩ nghĩ trong trí một hồi mà cũng không hiểu thơ ấy của ai, thật là một điều rất lạ, rồi tâm tư tự nghĩ rằng: lạ thay! như cái thơ trước là thơ hăm dọa người nên không ký tên cũng phải, chi như thơ nầy là thơ làm ơn, song chẳng rõ cớ nào mà không ký tên, cũng một điều rất quái. Hai cái thơ ấy làm cho Đông Sơ, trót đêm bối rối trí khôn, đứng nghĩ ngồi suy, nằm chẳng an nơi, ngủ không ngon giấc.
Bỗng nghe Đông Thành văng vẳng trống đã sang tư, gương thỏ bóng tà, inh ỏi canh gà giục thúc. Đông Sơ bèn thức dậy trà nước, rồi sắm sửa y cân, thì thơ đồng đã thắng ngựa gác yên, đứng chờ trước ngõ. Đông Sơ nai nịt xong rồi, bèn giục ngựa lên đường, nhắm diễn trường thẳng tới. Còn thơ đồng và Trần Đạt cũng thỉnh thoảng nối gót theo sau.
Khi Đông Sơ đi đặng một đỗi, gần tới ngà ba, liếc thấy phía trước xa xa, có một tàng đại thọ rất lớn, thì nhớ trong cái thơ sau có dặn rằng hễ tới đây thì phải đề phòng cẩn thận. Vì vậy nên Đông Sơ rút gươm cầm nơi tay, rồi giục ngựa chạy mau, còn mắt thì nhắm trước xem sau, thấy hai bên đường bụi cao bụi thấp, trong lúc bóng trăng nhấp nhàn, cây cỏ lờ mờ, dặm quang sang, bương bả bước anh hùng; cương tuấn mã xông pha đường lữ khách. Kế đó thình lình bỗng nghe một cái rẹt, thì thấy trước mặt đã xẹt ra một mũi tên, phăng phăng thẳng tới, Đông Sơ liền né qua, thì mũi tên ấy bay xớt bên tai, rồi đi tuốt. Tên nọ vừa qua, kế một mũi tên nữa bay tới. Đông Sơ liền lấy gươm gạt một cái, tên ấy rớt ngay xuống đất. Đó rồi Đông Sơ quất ngựa chạy tuốt ra diễn trường. Chạy đặng một đỗi xa xa, thì trời đã rạng đông, ác vừa lộ bóng.
Đông Sơ liền gò cương dừng ngựa, rảo mắt ngó quanh, bỗng thấy bên thành, cỏ cây lúp xúp, người ngựa lao xao, chính giữa có một đài cao, trước mái cặm một cây long kỳ gió bay phưởng phất, hai bên giáo gươm la liệt, quân ngũ sắp hàng, ấy là một chỗ diễn trường, xem rất nghiêm trang tề chỉnh. Kế nghe trống chiêng inh ỏi, gióng đủ ba hồi, thì thấy ba vị đại thần, cưỡi ngựa bước ra, rồi lên diễn trường mà ngồi, xem rất oai nghi lẫm liệt, đó là ba vi giám khảo. Còn chung quanh diễn trường, nào là nho sĩ, nào là võ sanh, kẻ ở thành thị, người trong thôn lý, dắt nhau náo nức đến xem, đứng đã chật đường, đông dường nhóm chợ.
Xảy thấy phía Nam thoạt ra một người cưỡi ngựa hồng lô, tướng mạo khôi ngô, y cân tề chỉnh, giục ngựa thẳng ra trước diễn trường, rồi một tay gò cương, một tay chống nạnh, đứng cách kiêu hãnh nghiêm trang, rồi rảo lại đi qua, xem rất xuê xoang oai võ.
(Liệt vị khán quan xem tới đây thế cũng ấm ức trông mong, mà coi người cưỡi ngựa hồng lô nầy là ai cho biết. Nhưng mà người nầy chẳng lạ, vốn tôi đã nói ló một sự tích xán qua trong khoảng trước đây, song tôi còn núp ngòi bút mà ẩn danh, làm cho liệt vị khán quan nhọc lòng trông đợi chơi trong một giây phút. Vậy tôi xin dẹp cái diễn trường lại đó một chút, đặng chỉ người cưỡi ngựa hồng lô nầy cho khán quan rõ trước.)
Nguyên người nầy tên là Bạch Xuân Phương, vẫn là con một vị Binh bộ Thượng thư ở tại Tây viên, là anh ruột của một vị tiểu thơ Bạch Thu Hà, tôi đã nói trong hồi trước.
Nguyên cách hai ngày trước, Bạch Xuân Phương nghe Võ Đông Sơ ra tranh Võ khoa Tấn sĩ, thì kêu một tên bộ hạ tâm phúc là Hồ Hợi, vào thơ phòng mà dặn rằng: “Nội đêm nay ngươi phải ra núp tại ngã ba cây đại thọ, đặng chờ Đông Sơ đi qua mà giết cho được, trước khi nó tới diễn trường, chẳng nên sơ thất.” Chẳng dè tiểu thơ Bạch Thu Hà đứng sau bình phong lắng tai nghe, biết anh mình thiết kế mà ám hại Đông Sơ, đặng tranh khoa tấn sĩ, thì lật đật trở lại tư phòng, rồi thầm lo trộm nghĩ rằng:
“Vả Đông Sơ là người đã thi ân cứu mạng của mình trong lúc gặp thằng cường bạo tại Quan Âm Các, và lại là một người hào ba phong nhã, đáng mặt thiên tài, nếu tạ thị bàng quan, mà điềm nhiên đi, thì chẳng những mình là ra kẻ vô tình, để cho anh mình hại một vị anh hùng tuấn kiệt, thì lòng nầy sao nỡ.”
Tiểu thơ nghĩ như vậy. liền lại văn phòng viết một cái tư thơ, rồi sai con thể nữ tâm phúc, biểu đem thơ ấy lập tức bỏ lại trước cửa Đông Sơ, đặng cứu người cho khỏi lâm đại họa. Song không cho Đông Sơ biết mình là ai. Nên không ký tên thơ ấy. Vì vậy Đông Sơ mới khỏi lâm cái mũi tên độc thủ trong lúc tăm tối giữa đường.
Còn anh Bạch Thu Hà là Xuân Phương chắc là Đông Sơ thế nào cũng chẳng thoát khỏi mũi tên kia ghim vào gan ruột, nên khi cưỡi ngựa tới diễn trường, thì coi bộ hiu hiu tự đắc.
(Tới đây xin tiếp luôn theo khoảng trên đã nói khi nẩy)
Trong lúc Bạch Xuân Phương đứng trước diễn tràng rảo mắt ngó 4 phía, bỗng thấy Võ Đông Sơ cưỡi ngựa đứng phía bên kia, thì sẫu ruột nhăn mày sững sờ và lấy làm lạ, chẳng dè Đông Sơ thoát khỏi cái độc kế mà tới đặng diễn trường! Kế nghe trên diễn đài một vị giám quan kêu tên Bạch Xuân Phương vào trường ứng thí.
Bạch Xuân Phương lật lật bước tới cúi đầu thi lễ rồi lấy cung tên cưỡi ngựa chạy một vòng, nhắm kim tiền mà bắn, bắn 2 mũi đầu đều lọt vào lổ kim tiền, còn mũi thứ ba thì trúng ngoài vành mà thôi, không vô lổ đặng.
Kế tới phiên Đông Sơ cũng cưỡi ngựa chạy một vòng, rồi dương giáp tên nhắm kim tiền, xạ luôn 3 mũi đều vô lổ hết. Các người coi đều khen hay.
Đông Sơ quày ngựa lại trước diễn trường cúi đầu, rồi trở ra một bên mà đứng. Xảy thấy Xuân Phương cưỡi ngựa ra thưa với 3 vị giám khảo rằng: “Đông Sơ chẳng phải giỏi, ấy là may mà trúng đó thôi. Như Đông Sơ thiệt tài, thì tôi xin thí võ, chừng ấy mới biết sức hơn thua, biết tài cao thấp.”
Ba vị chủ khảo thấy Xuân Phương kêu nài, thì hạ lệnh cho, nhưng không dùng gươm giáo thiệt, e rủi thương nhằm tánh mạng, phải dùng trường côn vấn giẻ hai đầu mà thôi; đó rồi truyền quân sắm sửa hai cây, cân phân bằng nhau, để trước diễn trường cho hai người lựa chọn.
Đông Sơ nhường cho Xuân Phương lấy trước, rồi Đông Sơ lấy sau. Bỗng nghe trên đài giục trống ba hồi, vừa dứt thì hai người mới ra tay thủ đoạn.
Nguyên Bạch Xuân Phương bộ tướng dềnh dàng, vóc hình cao lớn, còn Đông Sơ thì nhỏ hơn vài phân, ước một mười một tám vậy. Vì vậy nên Xuân Phương chắc ý, thế nào cũng thắng đặng Đông Sơ, khoa tấn sĩ nầy sẽ vào tay mình chớ ai dám vô mà tranh đặng. Còn hai bên diễn trường thấy Xuân Phương sức lực mạnh mẽ bộ tướng dềnh dàng, thì ai ai cũng nghi sợ cho Đông Sơ không hề thắng nổi.
Khi hai người thủ hai ngọn trường côn rồi xáp lại, kẻ đánh người đâm, kẻ gạt người đỡ, xem thấy hai ngọn trường côn qua lại liền vo, tới lui vùn vụt, làm cho cát dậy bụi bay xung xăng, mù mịt như khói. Đánh nhau một hồi như lưỡng hổ hạ san, dường giao long xuất hải, làm cho hai bên diễn đường, ai ai đều lẳng lặng làm thinh, mắt ngó chăm chăm xem thôi sửng sốt.
Kế đó Đông Sơ quày ngựa nhảy ra, thì Xuân Phương đổi qua miếng phi tiên, tai tay nắm đầu roi trường côn, vụt vụt như chóng chóng, chơn thì giục ngựa xốc tới, coi thế dữ dằn. Còn Đông Sơ thì rảo ngựa chạy quanh, như gà kia xỏ lá.
Xuân Phương cứ huơ côn vụt vụt xốc tới, thiên hạ ai ai cũng chắc lưỡi lắc đầu, sợ cho Đông Sơ sức yếu tài sơ mà cự địch không nổi. Chẳng dè Đông Sơ thình lình quày ngựa lại lẹ làng, rồi huơ côn bắt ngọn roi của Xuân Phương một cái rất mạnh, đến đỗi ngọn roi của Xuân Phương đương vụt vụt như giông, bỗng chút văng ra xa hơn 4 trượng, làm cho Xuân Phương và ngựa day ngang như buồm kia bị gió thổi mạnh đứt lèo, làm cho ghe day theo mà muốn lật đi vậy, rồi mắt đổ hào quang, cả tay và chơn đều rúng động.
Đông Sơ thừa dịp ấy, hai chơn nhảy đứng trên lưng ngựa mình, rồi đạp một cái nhảy phóc qua hất Xuân Phương một roi, té nhào xuống đất, ngó lại thì Đông Sơ đã ngồi trơ trơ trên ngựa hồng lô, nhởn nhởn nhơ nhơ, hình như Tiết Nhơn Quí ở nơi Sơn Đông, cưỡi ngựa Huỳnh phiêu, dường như Lũ Phụng Tiên đứng trước Viên môn, tay gò xích thố. Cả thảy hai bên diễn trường đều la lớn lên một tiếng hay, hay, như sấm dạy vang tai, rồi dần dần vỗ tay lốp bốp như pháo nổ. Miếng nầy gọi là “Đại bàng phi thạch động, Sư tử thượng lầu đài”. Đó rồi Đông Sơ cưỡi ngựa thẳng tới trước diễn trường cúi đầu mà từ tạ.
Còn Bạch Xuân Phương bị té một cái, làm cho trật mũ rớt khăn, rồi xẽn lẽn ra về, như Tào A Man thất trận.