Vương Quốc Bí Ẩn

Chương 13 : Phù thủy

Ngày đăng: 15:17 19/04/20


Mabon và Peredur đưa bà lão vào trong nhà, đặt bà nằm trên tấm nệm. Mi mắt bà lim dim, bà lão cố gắng thở sâu từng hơi nặng nhọc.



Timoken quỳ xuống bên cạnh bà lão: “Thưa bà, những tên phù thủy đó là ai ạ?”



Bà lão cười cay đắng: “Ai mà biết được?” Tiếp theo là một chuỗi những cơn ho dữ dội, khi bà hổi phục, bà nói: “Ta đã thấy tất cả, nhưng rồi, ta lại chìm vào giấc ngủ, khi ta tỉnh dậy thì đã là quá muộn để cảnh báo họ.”



Nói rồi, bà lại tiếp tục ho, Marie mang cho bà một cốc nước. Cô bé này nhỏ hơn những đứa trẻ khác, chỉ tầm sáu hay bảy tuổi. Bà lão hét lên: “Thuốc độc!” và gạt tay của Marie đi, làm cốc nước rơi xuống đất.



“Đây là nước mưa thuần khiết, thưa bà. Trong đó không có độc đâu,” Timoken nói.



“Ồ?” mắt bà lão nheo lại, nghi ngờ.



“Chúng cháu đều đã uống nó, này, bà xem...” Timoken đưa tay chỉ tất cả những đứa trẻ khác, “... tất cả chúng cháu đều còn sống.”



Bà lão vẫn còn thận trọng: “Hừm!” Bà nói: “Cậu biết không, tất cả những người khác đều đã chết. Khi tỉnh dậy, tôi nghe thấy tiếng rên rỉ, khóc lóc từ những ngôi nhà khác. Tôi trông thấy rất nhiều người đàn ông, đàn bà và cả những đứa trẻ nhỏ nữa, họ bước đi loạng choạng, nôn ọe khắp nơi trên đường tới nhà Monsieur* Clement. Ông là một thầy thuốc, thuốc của ông rất linh nghiệm, ông đã chữa lành cho rất nhiều người. Nhưng không phải là lần này. Monsieur Clement đã chết.” Bà lão lại bắt đầu ho, lần này, bà đã chịu uống nước từ tay Marie.



* Monsieur: tiếng Pháp, có nghĩa là ông.



Timoken nhìn bà lão uống cạn cốc nước, cậu muốn hỏi thêm về những tên phù thủy, nhưng cậu không muốn ép buộc bà lão. Cốc nước có vẻ đã làm bà lão khỏe hơn, bà lão ngồi dậy, lau nước ở cằm. Edern mang cho bà một tô súp nóng, bà ăn nó rất nhanh, sau mỗi lần húp, bà liếm luôn chỗ súp đọng trên môi.



Bọn ừẻ nhìn bà ăn trong im lặng, chờ đợi bà lão kể tiếp phần còn lại của câu chuyện. Cuối cùng, bà cũng đã ăn xong tô súp, bà đưa cái tô sạch nhẵn lại cho Edern, ngồi sát vào tường, khoanh hai tay trước ngực.



“Làm ơn, thưa bà...” Timoken bắt đầu.



“Gruner,” bà lão ngắt lời, “Adele Gruner.”



“Bà có thể kể tiếp cho chúng cháu nghe chuyện gì đã diễn ra không?” Timoken hỏi.



“Đừng nhìn ta như thế,” bà Gruner than vãn. “Nào, ngồi xuống. Tất cả các cháu.”



Timoken ra hiệu cho mọi người ngồi xuống. Cậu nói với chúng rằng như thế có thể làm cho bà Gruner kể tiếp về những gì đã xảy ra.



Một nhóm ngồi gần lại với nhau trên bàn, số còn lại thì ngồi xếp bằng dưới đất. Beri lại gần bên, quỳ gối cạnh Timoken.



Bà Gruner bắt đầu kể. Bà thì thầm rất nhỏ và thở khò khè khi kể về sự việc đã dẫn đến cái chết trong ngôi làng của bà, Timoken phiên dịch lại lời nói của bà cho Beri và những đứa trẻ người Anh. Chỉ trong một vài giây, Timoken đã làm rất thuần thục công việc này, đến nỗi những người khác không còn nhận ra là cậu đang phiên dịch một lúc hai thứ tiếng khác nhau. Cậu thuật lại cả câu chuyện liền mạch cho mọi người.



Bà lão sống ở một ngôi nhà phía cuối ngôi làng. Ba ngày trước, khi bà đang nhặt củi ở sau nhà, thì năm người đàn ông cưỡi ngựa đi tới. Chúng còn dẫn theo một con ngựa nữa, một con quái vật đen sì thở ra lửa, những bước chạy của nó làm cho mặt đất rung lên. “Bốn tên lạ mặt có nước da màu xanh,” bà nói. “Tứ chỉ của chúng dài loằng ngoằng và không có khớp. Không có đầu gối, không có cổ tay, cũng không có cùi chỏ. Chúng ăn mặc cầu kì, áo choàng màu xanh lá cây có những đường viền bằng lông thú, nhưng mặt của chúng, mặt của chúng...” Bà Gruner dừng lại và dụi mắt. Hành động như thể bà đang cố xua đi ký ức. Bỗng nhiên, bà buông hai tay xuống và nói: “Mặt của chúng thật là kỳ quái.”




Chồng của bà Magnier là một người lính, nhưng sau khi bị thương trong một trận chiến, ông không thể ra trận được nữa. Chân ông đi khập khiễng, nhưng ông chắc rằng tay mình vẫn còn rất khỏe, ông nói với những đứa trẻ người Pháp rằng, ông sẽ bảo vệ chúng trên đường đi đến lâu đài nơi Henri ở.



“Cha của tớ sẽ đưa từng người trong các cậu về nhà. Tớ hứa đấy.” Henri mỉm cười với những đứa trẻ người Pháp đang vỗ tay và reo hò vui mừng.



Monsieur Magnier nghiêng người qua bàn của Edern và hỏi rằng cậu muốn đi đến đâu. Edern nhún vai, trông cậu có vẻ bối rối.



“Ông ấy đang hỏi cậu muốn đi về đâu,” Timoken nói.



“Tớ muốn đi với cậu,” Edern liền trả lời. Cậu hỏi những đứa trẻ người Anh khác.



“Chúng ta sẽ cùng ở bên nhau,” Peredur nói. “Tớ cũng muốn đi với cậu.”



“Thế còn cô bé kia, cô bé không phải người Pháp?” bà Magnier hỏi.



“Cậu muốn đi đâu?” Timoken hỏi Beri.



“Về nhà,” cô buồn bã nói.



“Tất nhiên rồi,” bà Magnier vẫn không biết nhà cô bé ở đâu, bà chỉ mỉm cười.



“Còn cậu thì sao, cậu bé Châu Phi?” một người phụ nữ khác hòi. “Cậu muốn đi đâu, cậu và con lạc đà của cậu?”



Timoken ngập ngừng trong một lúc, cậu không thể trả lời. Cậu không hề có ý định gì về đích đến tiếp theo. Cậu không có nhà, cậu thấy mình như một ngọn cỏ, cứ mặc cho gió thổi đi, không có phương hướng nhất định. Ngón tay đeo nhẫn của cậu lại đau, cơn đau bắt đầu lan ra khắp người. Gần như không hề suy nghĩ, Timoken bất chợt nói: “Tôi sẽ đi đến Castile.”



“Castile?” những tiếng thì thầm bắt đầu vang lên trong bàn tiệc. Nhiều không người biết nơi đó là đâu.



Ông Magnier đã từng nghe thấy cái tên đó. “Cậu sẽ không thể đến được nơi đó đâu,” ông nói và lắc đầu. “Nó rất xa, về phía Tây Ban Nha.”



“Không xa lắm đâu,” Timoken nói. Cậu liếc nhìn Beri, cô đang mỉm cười với cậu.



Tại sao cậu lại nói ra cái tên đó nhỉ? Castile. Nơi đó là ở đâu? Cậu chỉ biết là Beri đến từ nơi đó và nó có vẻ như có một mối liên kết nào đó với cậu. Cậu nhìn xuống chiếc nhẫn, xoay tròn nó quanh ngón tay và nghĩ ngợi.



“Cô ấy đang ở đó,” giọng nói thì thầm vang lên.



“Cô ấy?” Timoken giật mình.