[Dịch] Witcher Saga #2: Time of Contempt
Chương 1 : CHƯƠNG I.I
Ngày đăng: 23:11 07/05/20
Vedymins, những kẻ được gọi là Witcher theo ngôn ngữ phương Bắc – một tập hợp các chiến binh-thầy tu tinh nhuệ bí ẩn, có lẽ là một nhánh khác của Druid. Theo như truyền thuyết dân gian, họ sở hữu năng lực phép thuật và các khả năng siêu nhiên mà họ dùng để chiến đấu chống lại những linh hồn hắc ám, quái vật và những sinh linh độc ác. Trong thực tế, vì là những bậc thầy kiếm thuật, họ thường được các thủ lĩnh của phương bắc sử dụng trong chiến tranh bộ lạc. Trong trận chiến họ rơi vào một cơn hôn mê, mà có lẽ được gây ra bởi thôi miên và các loại độc dược, giúp họ chiến đấu với sự cuồng nộ mù quáng và hoàn toàn miễn nhiễm trước đau đớn hay kể cả những vết thương nặng nhất – chính điều này đã củng cố thêm sự mê tín đối với các khả năng siêu nhiên của họ. Giả thiết về nguồn gốc do đột biến hay kỹ thuật di truyền của họ vẫn chưa được chứng minh. Đây là những người hùng trong rất nhiều câu truyện dân gian của phương Bắc (dựa theo F.Delannoy, “Những bí ẩn và truyền thuyết của Người phương Bắc”)
- Effenberg và Talbot, Đại bách khoa toàn thư về thế giới, Quyển XV.
___________
Để làm cái nghề đưa thư này, Aplegatt thường nói với các tập sự trẻ tuổi rằng cần phải có hai thứ - một cái đầu bằng vàng và một cái mông bằng sắt.
Một cái đầu bằng vàng là cần thiết, như Aplegatt đã dạy, bởi vì bên trong cái túi da dưới đống quần áo của người đưa thư chỉ là những thông điệp tầm thường, loại mà con người ta có thể vô tư viết lên giấy. Những thông điệp thực sự quan trọng, bí mật, loại mà có ý nghĩa rất lớn, người đưa thư phải ghi nhớ và truyền lại cho người nhận. Đúng đến từng từ, và đôi lúc những từ này đâu có đơn giản. Đến phát âm còn khó chứ chưa nói gì đến nhớ. Để có thể nhớ được và không mắc sai lầm, một người thực sự cần một cái đầu bằng vàng.
Còn về cái mông sắt, chà, cái đó thì mỗi người đưa thư khắc tự khám phá ra. Sau khi đã dành ba ngày ba đêm trên yên ngựa và chạy liên tục trong 100 đến 200 dặm đường gồ ghề. Ha, đương nhiên rồi, đâu thể ngồi cả ngày trên yên được, cũng có lúc phải xuống nghỉ chứ. Con người thì có thể chịu đựng được nhiều, nhưng ngựa thì không. Và đến lúc lại phải quay lại yên ngựa, cái mông đôi khi hét lên: “Thần linh ơi, không!”
Nhưng thời buổi này ai mà cần đến người đưa thư nữa chứ, ngài Aplegatt hỏi các tập sự. Từ Vengerberg đến Vizima, ví dụ, một người không thể đi trong ít hơn 4 đến 5 ngày, ngay thậm chí cả trên con ngựa nhanh nhất. Nhưng một pháp sư ở Vengerberg cần bao nhiêu thời gian để truyền thông điệp đến một pháp sư ở Vizima? Nửa giờ là cùng. Ngựa có thể bị què. Cướp hay Sóc có thể bắn người đưa thư, chó sói hay griffin có thể xé xác anh ra làm trăm mảnh. Một phút trước vẫn còn người đưa thư, phút sau anh ta đã chết rồi. Trong khi một thông điệp ma thuật chắc chắn sẽ đến nơi, không lạc đường hay chậm trễ. Ai mà cần người đưa thư trong khi các pháp sư ở khắp nơi, gần mỗi tòa lâu đài?
Những người đưa thư đã thành thừa rồi, ngài Aplegatt.
Trong một thời gian, Aplegatt cũng nghĩ rằng chẳng có ai còn cần đến anh nữa. Anh 36 tuổi, lùn nhưng khỏe mạnh và gân guốc, anh không sợ làm việc nặng nhọc và anh có một cái đầu bằng vàng. Anh có thể tìm một công việc khác để nuôi sống bản thân và vợ, dành dụm chút tiền làm của hồi môn cho hai đứa con gái chưa chồng, và tiếp tục giúp đỡ đứa đã kết hôn, mà tên chồng đần độn có vẻ không được may mắn trong việc làm ăn cho lắm. Nhưng Aplegatt không muốn và không thể tưởng tượng ra mình làm việc gì khác. Anh là Sứ Giả Hoàng Gia.
Và đột nhiên, sau một thời gian dài không hoạt động và ủ dột, người ta lại cần đến Aplegatt. Những móng ngựa lại rầm rập trên con đường. Người đưa thư, như những ngày xưa cũ, lại bắt đầu đi xuyên qua đất nước mang thông điệp từ nơi này đến nơi khác.
Aplegatt biết tại sao. Anh thấy nhiều, và nghe càng nhiều hơn. Nhẽ ra anh phải xóa những thông điệp đã được truyền đi ra khỏi đầu ngay lập tức, để không ai có thể moi móc được chúng từ anh kể cả khi tra tấn. Nhưng Aplegatt vẫn nhớ. Và hiểu tại sao các vị vua lại bỗng dưng ngừng liên lạc với nhau bằng ma thuật và không cần sự trợ giúp của các pháp sư. Những thông điệp mà người đưa thư mang đi là để giữ bí mật khỏi chính họ. Các vị vua đã không còn tin tưởng họ, không còn chia sẻ bí mật với họ nữa.
Nguyên nhân của sự ghẻ lạnh trong quan hệ giữa các vị vua và pháp sư này là gì, Aplegatt không biết và cũng không quan tâm. Cả hai, theo quan điểm của anh, đều là những sinh vật phi thường mà không thể dự đoán trước được hành động – đặc biệt là vào lúc này, trong thời buổi khó khăn như vậy. Và sự thật là thời buổi khó khăn đang đến, rất dễ dàng nhận ra trong khi di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, lâu đài này sang lâu đài khác, vương quốc này sang vương quốc khác.
Những con đường dày đặc lính. Cứ đi một bước là lại nhìn thấy một hàng bộ binh, và tay chỉ huy nào trông cũng có vẻ cáu bẳn, cảnh giác, nghiêm nghị và rất chắc chắn về tầm quan trọng của mình, như thể vận mệnh của cả thế giới đang nằm trong tay họ. Các lâu đài và thành quách cũng đầy lính canh, đông đúc và nhộn nhịp suốt ngày đêm. Các vị bá tước và chủ lâu đài thường ít khi ló mặt ra thì giờ đây tuần hành qua lại trên những bức tường và sân trong, giận dữ như những con ong trước cơn bão, họ la hét, chửi rủa, ra lệnh và đá.
Nói theo cách khác, nguy cơ chiến tranh đang treo trên đầu họ.
Aplegatt đứng dậy và nhìn ngó xung quanh. Bên dưới đồi là một dòng sông và đằng sau nó là khu rừng. Người đưa thư thúc con ngựa. Thời gian đang gấp rút.
Anh đã đang trên đường được hai ngày rồi. Mệnh lệnh của đức vua và những lá thư đã được giao cho anh ở Hagge, nơi anh đang nghỉ ngơi sau chuyến đi từ Tretogor về. Anh rời tòa lâu đài vào ban đêm, phi dọc bờ trái của Pontar, vượt qua biên giới Temeria trước bình minh và giờ, vào trưa ngày hôm sau, anh đã gần đến bờ của Ismena. Nếu vua Foltest mà ở Vizima thì Aplegatt đã chuyển được thông điệp cho ông vào đêm nay rồi. Đen đủi là đức vua lại đang không có ở thủ đô – ông đang ở phía nam đất nước, ở Maribor, cách Vizima 200 dặm. Aplegatt biết điều này, đó là vì sao khi đến gần Cầu Trắng anh đã rời khỏi con đường chính dẫn về phía tây và hướng đến con đường rừng dẫn về Ellander. Có hơi liều lĩnh một chút. Bọn Sóc vẫn đang hoành hành và thật đáng thương cho kẻ nào lọt vào tay chúng, hay ở trong tầm ngắm bắn của chúng. Nhưng người sứ giả hoàng gia phải chấp nhận thôi. Đó là nghề của anh mà.
Anh vượt qua dòng sông mà không gặp khó khăn nào – từ tháng 6 đã không còn mưa nữa và mực nước giảm đáng kể. Anh đến con đường dẫn từ Vizima về phía đông bắc, hướng về các lò rèn và công xưởng của người lùn nằm trong ngọn núi Mahakam. Có rất nhiều các đoàn xe đi trên đường này và Aplegatt thở phào nhẹ nhõm. Scoia’tael thường tránh xa đám đông. Các chiến dịch chống elves đã tiếp tục ở Temeria được một năm, các biệt đội Sóc bị truy đuổi chia ra thành các nhóm nhỏ hơn và các nhóm này tránh xa những con đường bận rộn, không tổ chức mai phục chúng.
Trước khi đêm xuống anh đã ở biên giới phía tây của Ellander, gần làng Zavada, từ đó con đường dẫn đến Maribor thẳng tắp và an toàn. Có một quán rượu gần đấy. Anh quyết định để bản thân và con ngựa được nghỉ ngơi một chút. Anh biết rằng nếu mình khởi hành vào lúc bình minh thì trước khi mặt trời lặn, anh sẽ được trông thấy những lá cờ đen-bạc trên các mái ngói đỏ thẫm của Maribor.
Anh tự mình cởi túi đồ trên yên xuống, yêu cầu cậu bé trông coi chuồng ngựa đi ra chỗ khác. Người sứ giả hoàng gia không bao giờ cho phép ai được động vào ngựa của mình. Anh ăn một bữa no bụng. Uống chút bia. Nghe ngóng tin tức. Có rất nhiều tin để nghe. Đủ loại khách vãng lai dừng chân tại quán rượu, từ mọi nơi trên thế giới.
Ở Dol Angra, Aplegatt nghe được, lại xảy ra sự cố mới. Lại lần nữa, các kỵ binh Lyria giao tranh với lính Nilfgaard trên biên giới. Lại lần nữa, Meve, Nữ hoàng của Lyria, lớn tiếng buộc tội Nilfgaard đã khiêu khích và yêu cầu sự trợ giúp từ Demavend, vua của Aedirn. Ở Tretogor đã xảy ra một vụ hành quyết công khai một nam tước Redania, người mà đã ngấm ngầm thông đồng với các sứ thần của Hoàng đế Nilfgaard, Emhyr. Ở Kaedwen, các biệt đội Scoia’tael tập hợp lại tàn sát pháo đài Leyda. Và để trả đũa, các cư dân của Ard Carraigh đã tổ chức thanh trừng, giết hại gần 400 kẻ không-phải-người đang sống trong thành phố.
Ở Temeria, những người thương nhân đến từ phía nam nói, một bóng tối đang bao trùm lên những người Cintra tị nạn hiện đang tập trung lại dưới ngọn cờ của Nguyên soái Vissegerd. Có vẻ như tin tức về cái chết bi thảm của Sư Tử Con, cháu gái của Calanthe, công chúa Cirilla, đã được xác nhận.
Anh cũng nghe được nhiều lời đồn khủng khiếp hơn nữa. Tại một ngôi làng gần Aldersberg, những con bò không còn cho ra sữa nữa mà là máu, và Trinh Nữ Chết Chóc, điềm báo đại họa, được nhìn thấy vào lúc bình minh trong màn sương. Ở Brugge, gần rừng Brokilon, cấm địa của người dryad, Wild Hunt đã xuất hiện và tất cả mọi người đều biết đó là điềm báo chiến tranh. Người ta cũng trông thấy một con tàu ma lảng vảng gần mũi đất Bremervoord, trên boong tàu là một bóng người – một kỵ sĩ đen với chiếc mũ cánh chim.
Người đưa thư không nghe kỹ lắm, anh đã quá mệt rồi. Anh đổ người xuống giường và ngay lập tức chìm vào giấc ngủ.
Anh thức dậy vào lúc bình minh. Khi bước ra ngoài anh đã gặp một bất ngờ - anh không phải là người đầu tiên chuẩn bị khởi hành và đó là một điều thật sự hiếm hoi. Một con ngựa đen đứng gần cái giếng và cạnh nó là một người phụ nữ mặc quần áo đàn ông đang rửa tay bằng nước trong cái máng. Nghe thấy bước chân Aplegatt lại gần, cô quay lại và vén mái tóc dài, đen nhánh của mình lên. Người đưa thư cúi chào. Người phụ nữ gật đầu.
Bước vào chuồng ngựa, anh gần như đâm phải con chim dậy sớm thứ hai, một cô gái trẻ đội mũ bêrê nhung đang dẫn một con ngựa màu táo. Cô bé xoa mặt và ngáp dài, người tựa vào con thú bên cạnh.
“Ôi trời,” cô bé lầm bầm khi đi qua người đưa thư, “Mình sẽ ngủ gật trên con ngựa mất....thể nào mình cũng sẽ ngủ gật cho mà xem....Uaaaaa.....”
“Khi con ngựa bắt đầu đi, cái lạnh sẽ đánh thức cô dậy”, Aplegatt nói. “Chúc thượng lộ bình an, thưa cô.”
Cô bé quay lại và nhìn như thể vừa mới nhận ra anh. Đôi mắt cô to và xanh như một cặp ngọc lục bảo. Aplegatt đặt yên lên lưng ngựa.
“Tôi chúc cô đi an toàn,” anh lặp lại. Thường thì anh không hay nói nhiều, nhưng giờ đây anh cảm thấy nhu cầu muốn được nói chuyện với ai đó, kể cả người đó có là một con nhãi đang mơ ngủ đi chăng nữa. Có lẽ là do những ngày dài đi đường, hay có lẽ là do cô bé gợi anh nhớ đến đứa con thứ hai của mình.
“Cầu cho các vị thần sẽ che chở cho cô,” anh thêm vào. “Cầu cho họ sẽ bảo vệ cô khỏi tai nạn và thời tiết xấu. Các cô chỉ có hai người mà lại còn là phụ nữ nữa....và thời buổi đang khó khăn. Nguy hiểm rình rập khắp nơi.”
Cô bé mở to mắt ra. Người đưa thư cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng mình.
“Nguy hiểm....” cô bé nói bằng một giọng khác thường. “Nguy hiểm rất im lặng. Anh sẽ không nghe thấy nó bay đến trên những chiếc lông chim màu xám. Tôi đã có một giấc mơ. Cát...cát rất ấm dưới ánh mặt trời....”
“Cái gì?” Aplegatt đông cứng. “Cô đang nói về cái gì vậy? Cát nào?”
Cô bé rùng mình và lau mặt. Con ngựa màu táo lúc lắc cái đầu.
“Ciri!” người phụ nữ tóc đen đứng bên ngoài la lên. “Nhanh lên đi!”
Cô bé ngáp dài, nhìn Aplegatt như thể ngạc nhiên trước sự hiện diện của anh. Người đưa thư im lặng.
“Ciri,” người phụ nữ lại nói. “Con ngủ ở đó rồi à?”
“Con đến đây, cô Yennefer!”
Khi Aplegatt sửa soạn xong yên cương và dắt con ngựa ra ngoài, không thấy bóng dáng người phụ nữ hay cô bé đâu cả. Người đưa thư nhảy lên lưng ngựa và nhớ đến cặp mắt xanh lục của cô bé ngái ngủ, và những lời nói khó hiểu của cô. Nguy hiểm im lặng? Lông chim màu xám? Cát ấm? Chắc là nó hơi ấm đầu, anh quyết định. Có rất nhiều những kẻ bất hạnh như vậy trong những ngày này, những cô gái phát điên vì bị quân lính hay bọn côn đồ cưỡng bức....Phải, chắc là nó bị điên. Hay có lẽ là vẫn chưa tỉnh ngủ? Đôi lúc con người ta lảm nhảm những điều thật kỳ lạ trong khi mơ màng.
Anh rùng mình cái nữa và cảm thấy một cơn đau trên bả vai. Anh lấy tay xoa lưng.
Ngay khi đặt chân lên con đường dẫn đến Maribor, anh thúc ngựa phi nước đại. Thời gian đang gấp rút.
***
Anh không dừng chân lâu tại Maribor – ngày vẫn chưa hết và những cơn gió đã đang thổi qua tai anh rồi. Con ngựa mới, đến từ chuồng ngựa của Maribor, quét qua con đường bằng cái đuôi của mình. Ngực Aplegatt áp chặt vào túi bưu kiện ngoại giao. Mông anh nhức khủng khiếp.
“Cầu cho mi ngã gãy cổ, đồ điên!” một tay lái xe nào đó sau lưng anh hét lên, trấn an con ngựa đang phát hoảng khi Aplegatt phi qua. “Chạy như thần chết đang liếm ngón chân mình vậy! Mi sẽ không thoát khỏi Thần Chết đâu!”
Aplegatt dụi dụi mắt.
Ngày hôm qua anh đã giao bưu kiện cho vua Foltest và truyền lại thông điệp bí mật từ vua Demavend.
Demavend gửi Foltest. Tất cả đã sẵn sàng ở Dol Angra. Những người đóng kịch đang đợi lệnh. Thời gian hành động: đêm thứ hai của tháng 11, sau trăng non. Những con thuyền phải sang đến bờ bên kia con sông sau hai ngày.
Một đàn quạ bay qua con đường. Chúng bay về hướng đông, về phía Mahakam, Dol Angra và Vengerberg. Người đưa thư nhẩm đi nhẩm lại thông điệp bí mật từ đức vua của Temeria gửi đến người trị vì Aedirn.
Foltest gửi Demavend. Thứ nhất: hoãn kế hoạch lại. Lũ khôn lỏi đang chuẩn bị một buổi triệu tập tại Thanedd. Có thể dẫn đến thay đổi nhiều thứ. Thứ hai: hãy hủy bỏ cuộc săn lùng Sư Tử Con. Thông tin đã được xác nhận. Sư Tử Con đã chết.
Aplegatt thúc con ngựa. Thời gian đang gấp rút.
***
Con đường hẹp bị những chiếc xe hàng chắn ngang. Aplegatt chậm rãi tiến lại đoàn xe dài đằng đẵng. Anh nhận ra ngay lập tức rằng mình sẽ không thể đi qua chỗ kẹt này. Quay lại bây giờ sẽ mất quá nhiều thời gian và ý nghĩ phải đi vòng qua khu rừng vào lúc trời tối không làm anh thấy thích thú chút nào.
“Chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy?” anh hỏi những người lái chiếc xe cuối hàng, hai ông già, một người trông ngái ngủ và người kia trông như đã chết rồi. “Cướp à? Hay Sóc? Nói đi! Tôi đang vội lắm....”
Trước khi họ kịp trả lời, những tiếng la ó vang lên từ đầu hàng. Những người lái xe nhanh chóng nhảy lên và quất những con ngựa và bò của mình. Hàng xe bắt đầu di chuyển. Người ngái ngủ thức dậy trong khi ông già trông như chết nhìn chằm chằm Aplegatt.
“Thật thiếu kiên nhẫn làm sao,” ông ta nói. “Này, con trai, cậu may mắn lắm đó. Nếu cậu mà đến đây từ buổi trưa thì đã phải đứng đợi như bọn tôi rồi. Ai mà chẳng vội, nhưng ai cũng phải chờ hết. Nếu không thì làm sao qua được đường cấm?”
“Con đường bị cấm ư? Sao lại thế?”
“Một con quái vật ăn thịt người kinh khủng nào đó đã xuất hiện, con trai à. Tấn công một hiệp sĩ đang đi cùng người hầu của mình. Người ta nói là nó đã bứt đầu vị hiệp sĩ và moi ruột con ngựa ra. Người hầu may mắn chạy thoát được và quay lại cảnh báo con đường tràn ngập máu....”
“Quái vật nào vậy?” Aplegatt hỏi. “Một con rồng à?”
“Không, không phải một con rồng.” Người kia nói. “Họ bảo là một con “mandygore” hay gì đó. Người hầu nói rằng nó là một loại thú biết bay, to khủng khiếp. Và dữ tợn! Chúng ta đã nghĩ: nó sẽ ăn thịt vị hiệp sĩ béo ngậy và bỏ đi, nhưng không! Thằng con hoang đó ngồi yên trên đường, rú rít, nhe nanh nhe vuốt ra....Thế nên bất kỳ ai lại gần và nhìn trộm được nó một cái đều bỏ xe lại và chạy như ma đuổi. Kẹt xe đến hơn một dặm và xung quanh thì toàn là đầm lầy, không thể quay lại hay đi vòng. Thế nên chúng ta đợi.....”
“Bao nhiêu trai tráng khỏe mạnh!” người đưa thư cười khẩy, “thế mà đứng đực ra ở đây như mấy con lừa. Lẽ ra nên vác rìu đi giết con quái vật luôn rồi.”
“Thì, đã có một số thử rồi,” ông già nói. “Ba người lùn từ đoàn hộ tống của các lái buôn, và đi cùng họ là bốn người lính nghĩa vụ đang trên đường đến lâu đài Carreras để nhập ngũ. Những người lùn bị cấu xé ghê lắm, còn bốn người lính thì.....”
“Bọn thỏ đế,” ông già kia nói nốt. “Chạy mất dép ngay khi vừa nhìn thấy con mandygore. Hình như có thằng còn vãi cả ra quần. Kia kìa, nhìn đi con trai, ngay kia kìa!”
“Tôi không muốn,” Aplegatt làu bàu. “Mấy cái quần bẩn không làm tôi hứng thú cho lắm.”
“Không phải! Con quái vật! Con quái vật đã chết rồi! Các chiến binh đang đặt nó lên một cái xe kìa! Thấy không?”
Aplegatt ngẩng đầu lên. Mặc dù đám đông bu kín lại xem, anh vẫn nhìn ra được một cái xác vĩ đại. Các chiến binh nhấc nó dậy và ném lên xe. Những con ngựa bồn chồn vì mùi hôi, hý lên.
“Đừng dừng lại!” người lính chỉ huy hét lên. “Tiến lên phía trước! Không được chặn đường!”
Các ông già thúc mấy con la. Aplegatt đi theo sau.
“Vậy là có vẻ các chiến binh đã giết được con quái vật?”
“Giá mà như vậy,” ông già cười khẩy. “Khi đến nơi, họ chẳng làm gì ngoài la hét với mọi người. Đứng im, tránh ra chỗ khác, làm cái này, làm cái kia. Họ đâu có chạy ra chỗ con quái vật ngay đâu. Họ đã gọi một witcher.”
“Một witcher sao?”
“Chính xác,” ông già kia xác nhận, “Có ai đó nhớ là đã trông thấy một witcher tại một ngôi làng gần đó, vậy nên họ cho gọi anh ta. Anh ta có đi qua chúng tôi. Tóc trắng, xấu xí với một thanh kiếm to đùng. Chưa đầy một tiếng sau, có ai đó hét lên là con đường đã thông, bởi vì witcher đã giết con quái vật. Vậy nên chúng tôi bắt đầu di chuyển. Và đó là lúc mà cậu đến.”
“Ha!” Aplegatt lầm bầm, lạc trong suy nghĩ. “Tôi đã đi khắp thế giới trong bao nhiêu năm mà chưa từng được nhìn một witcher nào. Có ai đã trông thấy anh ta giết con quái vật không?”
“Cháu thấy!” một cậu bé với mái tóc bờm xờm tiến lại gần chiếc xe từ phía bên kia. “Cháu đã thấy toàn bộ sự việc! Thật đó! Bởi vì cháu đã đứng cạnh mấy người lính, ngay hàng đầu tiên.”
“Kể đi nhóc.”
“Nó như thế này này,” cậu nhóc bắt đầu, “witcher lại gần chỗ người chỉ huy. Nói rằng tên ông ấy là Gernant. Chỉ huy nói là tên gì mặc kệ, miễn sao ông ta làm được việc. Rồi ông ta chỉ cho witcher chỗ của con quái vật. Witcher lại gần, quan sát một lúc rồi bảo đây là một con manticore to khác thường và ông ta sẽ giết nó với giá 200 crown.”
“200?” ông già kêu lên. “Hắn ta điên rồi chắc?”
“Người chỉ huy cũng nói tương tự, nhưng có hơi tinh nghịch hơn chút. Và witcher trả lời rằng đây là mức giá cuối cùng và ông ta không quan tâm, con quái vật có thể ngồi đó đến ngày tận thế cũng được. Người chỉ huy nói ông ta sẽ không trả nhiều như vậy, ông ta thà đợi nó bay đi còn hơn. Witcher bảo là nó sẽ không bay đi đâu, nó đang đói và cáu bẳn. Và kể cả nếu có bay đi thì nó cũng sẽ sớm quay lại khu vực săn mòi...m.....mài....mồi....”
“Đừng có lắp bắp nữa thằng nhãi,” ông già làu bàu. “Kể chuyện gì xảy ra tiếp theo đi.”
“Cháu đang cố đây! Vậy là witcher nói thế này: con quái vật sẽ không đi mà sẽ ngồi đó cả đêm để ăn thịt vị hiệp sĩ – từ từ, bởi vì ông ta mặc áo giáp, khó để moi ra. Thế là các lái buôn tụ tập lại và đề nghị trả 100 crown. Nhưng witcher nói rằng con quái vật tên là manticore và nó rất nguy hiểm, vậy nên họ đi mà nhét 100 crown đó vào mông mình, bởi vì ông ta sẽ không liều cái mông của ông ta chỉ vì số tiền đó. Người chỉ huy bực lên và quát rằng nghề nghiệp của gái điếm và witcher chính là liều cái mông của họ. Nhưng các lái buôn sợ là witcher cũng sẽ bực thế nên họ đồng ý giá 150. Và rồi witcher rút kiếm và đi ra chỗ con manticore. Và rồi người chỉ huy làm dấu thánh về phía witcher, nhổ nước bọt và bảo rằng lũ dị hợm quái quỷ như vậy không nên tồn tại trên đời. Các lái buôn đáp lại rằng nếu quân đội đi giết con quái vật thay vì đùa giỡn với elves trong rừng suốt ngày, thì đã không cần đến witcher làm gì.....”
“Đừng phí thời gian nữa,” ông già cắt ngang. “Nói cho chúng ta biết mày đã trông thấy gì đi.”
“Cháu,” thằng bé nói, “lúc đấy đang bận nhìn con ngựa của witcher, một con ngựa màu hạt dẻ với bờm trắng.”
“Kệ mẹ ngựa! Mày có nhìn thấy witcher giết con quái vật không?”
“Err....cháu không thấy. Cháu bị đẩy ra phía sau. Tất cả mọi người đều la hét và ngựa thì bồn chồn, thế nên.....”
“Đúng như tôi nghĩ,” ông già cười khinh bỉ, “Nó chẳng thấy cái mẹ gì cả, thằng nhãi con.”
“Nhưng cháu có thấy witcher quay lại!” Thằng bé cự nự, “và người chỉ huy, mà đã đứng đó xem từ đầu đến cuối, trông tái nhợt như ma và bảo với lính của mình rằng đó chắc hẳn phải là ma thuật hoặc trò bịp bợm nào đó của elves, bởi vì một người bình thường không thể nào nhanh đến vậy được. Witcher lấy tiền của các lái buôn, cưỡi lên ngựa và đi mất.”
“Hmm.....” Aplegatt lầm bầm, “Anh ta đi về phía nào? Đến Carreras? Nếu vậy thì ta có thể bắt kịp và nhìn anh ta một cái.”
“Không.” thằng bé nói. “Ông ấy đến Dorian. Có vẻ là ông ấy đang vội.”
- Effenberg và Talbot, Đại bách khoa toàn thư về thế giới, Quyển XV.
___________
Để làm cái nghề đưa thư này, Aplegatt thường nói với các tập sự trẻ tuổi rằng cần phải có hai thứ - một cái đầu bằng vàng và một cái mông bằng sắt.
Một cái đầu bằng vàng là cần thiết, như Aplegatt đã dạy, bởi vì bên trong cái túi da dưới đống quần áo của người đưa thư chỉ là những thông điệp tầm thường, loại mà con người ta có thể vô tư viết lên giấy. Những thông điệp thực sự quan trọng, bí mật, loại mà có ý nghĩa rất lớn, người đưa thư phải ghi nhớ và truyền lại cho người nhận. Đúng đến từng từ, và đôi lúc những từ này đâu có đơn giản. Đến phát âm còn khó chứ chưa nói gì đến nhớ. Để có thể nhớ được và không mắc sai lầm, một người thực sự cần một cái đầu bằng vàng.
Còn về cái mông sắt, chà, cái đó thì mỗi người đưa thư khắc tự khám phá ra. Sau khi đã dành ba ngày ba đêm trên yên ngựa và chạy liên tục trong 100 đến 200 dặm đường gồ ghề. Ha, đương nhiên rồi, đâu thể ngồi cả ngày trên yên được, cũng có lúc phải xuống nghỉ chứ. Con người thì có thể chịu đựng được nhiều, nhưng ngựa thì không. Và đến lúc lại phải quay lại yên ngựa, cái mông đôi khi hét lên: “Thần linh ơi, không!”
Nhưng thời buổi này ai mà cần đến người đưa thư nữa chứ, ngài Aplegatt hỏi các tập sự. Từ Vengerberg đến Vizima, ví dụ, một người không thể đi trong ít hơn 4 đến 5 ngày, ngay thậm chí cả trên con ngựa nhanh nhất. Nhưng một pháp sư ở Vengerberg cần bao nhiêu thời gian để truyền thông điệp đến một pháp sư ở Vizima? Nửa giờ là cùng. Ngựa có thể bị què. Cướp hay Sóc có thể bắn người đưa thư, chó sói hay griffin có thể xé xác anh ra làm trăm mảnh. Một phút trước vẫn còn người đưa thư, phút sau anh ta đã chết rồi. Trong khi một thông điệp ma thuật chắc chắn sẽ đến nơi, không lạc đường hay chậm trễ. Ai mà cần người đưa thư trong khi các pháp sư ở khắp nơi, gần mỗi tòa lâu đài?
Những người đưa thư đã thành thừa rồi, ngài Aplegatt.
Trong một thời gian, Aplegatt cũng nghĩ rằng chẳng có ai còn cần đến anh nữa. Anh 36 tuổi, lùn nhưng khỏe mạnh và gân guốc, anh không sợ làm việc nặng nhọc và anh có một cái đầu bằng vàng. Anh có thể tìm một công việc khác để nuôi sống bản thân và vợ, dành dụm chút tiền làm của hồi môn cho hai đứa con gái chưa chồng, và tiếp tục giúp đỡ đứa đã kết hôn, mà tên chồng đần độn có vẻ không được may mắn trong việc làm ăn cho lắm. Nhưng Aplegatt không muốn và không thể tưởng tượng ra mình làm việc gì khác. Anh là Sứ Giả Hoàng Gia.
Và đột nhiên, sau một thời gian dài không hoạt động và ủ dột, người ta lại cần đến Aplegatt. Những móng ngựa lại rầm rập trên con đường. Người đưa thư, như những ngày xưa cũ, lại bắt đầu đi xuyên qua đất nước mang thông điệp từ nơi này đến nơi khác.
Aplegatt biết tại sao. Anh thấy nhiều, và nghe càng nhiều hơn. Nhẽ ra anh phải xóa những thông điệp đã được truyền đi ra khỏi đầu ngay lập tức, để không ai có thể moi móc được chúng từ anh kể cả khi tra tấn. Nhưng Aplegatt vẫn nhớ. Và hiểu tại sao các vị vua lại bỗng dưng ngừng liên lạc với nhau bằng ma thuật và không cần sự trợ giúp của các pháp sư. Những thông điệp mà người đưa thư mang đi là để giữ bí mật khỏi chính họ. Các vị vua đã không còn tin tưởng họ, không còn chia sẻ bí mật với họ nữa.
Nguyên nhân của sự ghẻ lạnh trong quan hệ giữa các vị vua và pháp sư này là gì, Aplegatt không biết và cũng không quan tâm. Cả hai, theo quan điểm của anh, đều là những sinh vật phi thường mà không thể dự đoán trước được hành động – đặc biệt là vào lúc này, trong thời buổi khó khăn như vậy. Và sự thật là thời buổi khó khăn đang đến, rất dễ dàng nhận ra trong khi di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, lâu đài này sang lâu đài khác, vương quốc này sang vương quốc khác.
Những con đường dày đặc lính. Cứ đi một bước là lại nhìn thấy một hàng bộ binh, và tay chỉ huy nào trông cũng có vẻ cáu bẳn, cảnh giác, nghiêm nghị và rất chắc chắn về tầm quan trọng của mình, như thể vận mệnh của cả thế giới đang nằm trong tay họ. Các lâu đài và thành quách cũng đầy lính canh, đông đúc và nhộn nhịp suốt ngày đêm. Các vị bá tước và chủ lâu đài thường ít khi ló mặt ra thì giờ đây tuần hành qua lại trên những bức tường và sân trong, giận dữ như những con ong trước cơn bão, họ la hét, chửi rủa, ra lệnh và đá.
Nói theo cách khác, nguy cơ chiến tranh đang treo trên đầu họ.
Aplegatt đứng dậy và nhìn ngó xung quanh. Bên dưới đồi là một dòng sông và đằng sau nó là khu rừng. Người đưa thư thúc con ngựa. Thời gian đang gấp rút.
Anh đã đang trên đường được hai ngày rồi. Mệnh lệnh của đức vua và những lá thư đã được giao cho anh ở Hagge, nơi anh đang nghỉ ngơi sau chuyến đi từ Tretogor về. Anh rời tòa lâu đài vào ban đêm, phi dọc bờ trái của Pontar, vượt qua biên giới Temeria trước bình minh và giờ, vào trưa ngày hôm sau, anh đã gần đến bờ của Ismena. Nếu vua Foltest mà ở Vizima thì Aplegatt đã chuyển được thông điệp cho ông vào đêm nay rồi. Đen đủi là đức vua lại đang không có ở thủ đô – ông đang ở phía nam đất nước, ở Maribor, cách Vizima 200 dặm. Aplegatt biết điều này, đó là vì sao khi đến gần Cầu Trắng anh đã rời khỏi con đường chính dẫn về phía tây và hướng đến con đường rừng dẫn về Ellander. Có hơi liều lĩnh một chút. Bọn Sóc vẫn đang hoành hành và thật đáng thương cho kẻ nào lọt vào tay chúng, hay ở trong tầm ngắm bắn của chúng. Nhưng người sứ giả hoàng gia phải chấp nhận thôi. Đó là nghề của anh mà.
Anh vượt qua dòng sông mà không gặp khó khăn nào – từ tháng 6 đã không còn mưa nữa và mực nước giảm đáng kể. Anh đến con đường dẫn từ Vizima về phía đông bắc, hướng về các lò rèn và công xưởng của người lùn nằm trong ngọn núi Mahakam. Có rất nhiều các đoàn xe đi trên đường này và Aplegatt thở phào nhẹ nhõm. Scoia’tael thường tránh xa đám đông. Các chiến dịch chống elves đã tiếp tục ở Temeria được một năm, các biệt đội Sóc bị truy đuổi chia ra thành các nhóm nhỏ hơn và các nhóm này tránh xa những con đường bận rộn, không tổ chức mai phục chúng.
Trước khi đêm xuống anh đã ở biên giới phía tây của Ellander, gần làng Zavada, từ đó con đường dẫn đến Maribor thẳng tắp và an toàn. Có một quán rượu gần đấy. Anh quyết định để bản thân và con ngựa được nghỉ ngơi một chút. Anh biết rằng nếu mình khởi hành vào lúc bình minh thì trước khi mặt trời lặn, anh sẽ được trông thấy những lá cờ đen-bạc trên các mái ngói đỏ thẫm của Maribor.
Anh tự mình cởi túi đồ trên yên xuống, yêu cầu cậu bé trông coi chuồng ngựa đi ra chỗ khác. Người sứ giả hoàng gia không bao giờ cho phép ai được động vào ngựa của mình. Anh ăn một bữa no bụng. Uống chút bia. Nghe ngóng tin tức. Có rất nhiều tin để nghe. Đủ loại khách vãng lai dừng chân tại quán rượu, từ mọi nơi trên thế giới.
Ở Dol Angra, Aplegatt nghe được, lại xảy ra sự cố mới. Lại lần nữa, các kỵ binh Lyria giao tranh với lính Nilfgaard trên biên giới. Lại lần nữa, Meve, Nữ hoàng của Lyria, lớn tiếng buộc tội Nilfgaard đã khiêu khích và yêu cầu sự trợ giúp từ Demavend, vua của Aedirn. Ở Tretogor đã xảy ra một vụ hành quyết công khai một nam tước Redania, người mà đã ngấm ngầm thông đồng với các sứ thần của Hoàng đế Nilfgaard, Emhyr. Ở Kaedwen, các biệt đội Scoia’tael tập hợp lại tàn sát pháo đài Leyda. Và để trả đũa, các cư dân của Ard Carraigh đã tổ chức thanh trừng, giết hại gần 400 kẻ không-phải-người đang sống trong thành phố.
Ở Temeria, những người thương nhân đến từ phía nam nói, một bóng tối đang bao trùm lên những người Cintra tị nạn hiện đang tập trung lại dưới ngọn cờ của Nguyên soái Vissegerd. Có vẻ như tin tức về cái chết bi thảm của Sư Tử Con, cháu gái của Calanthe, công chúa Cirilla, đã được xác nhận.
Anh cũng nghe được nhiều lời đồn khủng khiếp hơn nữa. Tại một ngôi làng gần Aldersberg, những con bò không còn cho ra sữa nữa mà là máu, và Trinh Nữ Chết Chóc, điềm báo đại họa, được nhìn thấy vào lúc bình minh trong màn sương. Ở Brugge, gần rừng Brokilon, cấm địa của người dryad, Wild Hunt đã xuất hiện và tất cả mọi người đều biết đó là điềm báo chiến tranh. Người ta cũng trông thấy một con tàu ma lảng vảng gần mũi đất Bremervoord, trên boong tàu là một bóng người – một kỵ sĩ đen với chiếc mũ cánh chim.
Người đưa thư không nghe kỹ lắm, anh đã quá mệt rồi. Anh đổ người xuống giường và ngay lập tức chìm vào giấc ngủ.
Anh thức dậy vào lúc bình minh. Khi bước ra ngoài anh đã gặp một bất ngờ - anh không phải là người đầu tiên chuẩn bị khởi hành và đó là một điều thật sự hiếm hoi. Một con ngựa đen đứng gần cái giếng và cạnh nó là một người phụ nữ mặc quần áo đàn ông đang rửa tay bằng nước trong cái máng. Nghe thấy bước chân Aplegatt lại gần, cô quay lại và vén mái tóc dài, đen nhánh của mình lên. Người đưa thư cúi chào. Người phụ nữ gật đầu.
Bước vào chuồng ngựa, anh gần như đâm phải con chim dậy sớm thứ hai, một cô gái trẻ đội mũ bêrê nhung đang dẫn một con ngựa màu táo. Cô bé xoa mặt và ngáp dài, người tựa vào con thú bên cạnh.
“Ôi trời,” cô bé lầm bầm khi đi qua người đưa thư, “Mình sẽ ngủ gật trên con ngựa mất....thể nào mình cũng sẽ ngủ gật cho mà xem....Uaaaaa.....”
“Khi con ngựa bắt đầu đi, cái lạnh sẽ đánh thức cô dậy”, Aplegatt nói. “Chúc thượng lộ bình an, thưa cô.”
Cô bé quay lại và nhìn như thể vừa mới nhận ra anh. Đôi mắt cô to và xanh như một cặp ngọc lục bảo. Aplegatt đặt yên lên lưng ngựa.
“Tôi chúc cô đi an toàn,” anh lặp lại. Thường thì anh không hay nói nhiều, nhưng giờ đây anh cảm thấy nhu cầu muốn được nói chuyện với ai đó, kể cả người đó có là một con nhãi đang mơ ngủ đi chăng nữa. Có lẽ là do những ngày dài đi đường, hay có lẽ là do cô bé gợi anh nhớ đến đứa con thứ hai của mình.
“Cầu cho các vị thần sẽ che chở cho cô,” anh thêm vào. “Cầu cho họ sẽ bảo vệ cô khỏi tai nạn và thời tiết xấu. Các cô chỉ có hai người mà lại còn là phụ nữ nữa....và thời buổi đang khó khăn. Nguy hiểm rình rập khắp nơi.”
Cô bé mở to mắt ra. Người đưa thư cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng mình.
“Nguy hiểm....” cô bé nói bằng một giọng khác thường. “Nguy hiểm rất im lặng. Anh sẽ không nghe thấy nó bay đến trên những chiếc lông chim màu xám. Tôi đã có một giấc mơ. Cát...cát rất ấm dưới ánh mặt trời....”
“Cái gì?” Aplegatt đông cứng. “Cô đang nói về cái gì vậy? Cát nào?”
Cô bé rùng mình và lau mặt. Con ngựa màu táo lúc lắc cái đầu.
“Ciri!” người phụ nữ tóc đen đứng bên ngoài la lên. “Nhanh lên đi!”
Cô bé ngáp dài, nhìn Aplegatt như thể ngạc nhiên trước sự hiện diện của anh. Người đưa thư im lặng.
“Ciri,” người phụ nữ lại nói. “Con ngủ ở đó rồi à?”
“Con đến đây, cô Yennefer!”
Khi Aplegatt sửa soạn xong yên cương và dắt con ngựa ra ngoài, không thấy bóng dáng người phụ nữ hay cô bé đâu cả. Người đưa thư nhảy lên lưng ngựa và nhớ đến cặp mắt xanh lục của cô bé ngái ngủ, và những lời nói khó hiểu của cô. Nguy hiểm im lặng? Lông chim màu xám? Cát ấm? Chắc là nó hơi ấm đầu, anh quyết định. Có rất nhiều những kẻ bất hạnh như vậy trong những ngày này, những cô gái phát điên vì bị quân lính hay bọn côn đồ cưỡng bức....Phải, chắc là nó bị điên. Hay có lẽ là vẫn chưa tỉnh ngủ? Đôi lúc con người ta lảm nhảm những điều thật kỳ lạ trong khi mơ màng.
Anh rùng mình cái nữa và cảm thấy một cơn đau trên bả vai. Anh lấy tay xoa lưng.
Ngay khi đặt chân lên con đường dẫn đến Maribor, anh thúc ngựa phi nước đại. Thời gian đang gấp rút.
***
Anh không dừng chân lâu tại Maribor – ngày vẫn chưa hết và những cơn gió đã đang thổi qua tai anh rồi. Con ngựa mới, đến từ chuồng ngựa của Maribor, quét qua con đường bằng cái đuôi của mình. Ngực Aplegatt áp chặt vào túi bưu kiện ngoại giao. Mông anh nhức khủng khiếp.
“Cầu cho mi ngã gãy cổ, đồ điên!” một tay lái xe nào đó sau lưng anh hét lên, trấn an con ngựa đang phát hoảng khi Aplegatt phi qua. “Chạy như thần chết đang liếm ngón chân mình vậy! Mi sẽ không thoát khỏi Thần Chết đâu!”
Aplegatt dụi dụi mắt.
Ngày hôm qua anh đã giao bưu kiện cho vua Foltest và truyền lại thông điệp bí mật từ vua Demavend.
Demavend gửi Foltest. Tất cả đã sẵn sàng ở Dol Angra. Những người đóng kịch đang đợi lệnh. Thời gian hành động: đêm thứ hai của tháng 11, sau trăng non. Những con thuyền phải sang đến bờ bên kia con sông sau hai ngày.
Một đàn quạ bay qua con đường. Chúng bay về hướng đông, về phía Mahakam, Dol Angra và Vengerberg. Người đưa thư nhẩm đi nhẩm lại thông điệp bí mật từ đức vua của Temeria gửi đến người trị vì Aedirn.
Foltest gửi Demavend. Thứ nhất: hoãn kế hoạch lại. Lũ khôn lỏi đang chuẩn bị một buổi triệu tập tại Thanedd. Có thể dẫn đến thay đổi nhiều thứ. Thứ hai: hãy hủy bỏ cuộc săn lùng Sư Tử Con. Thông tin đã được xác nhận. Sư Tử Con đã chết.
Aplegatt thúc con ngựa. Thời gian đang gấp rút.
***
Con đường hẹp bị những chiếc xe hàng chắn ngang. Aplegatt chậm rãi tiến lại đoàn xe dài đằng đẵng. Anh nhận ra ngay lập tức rằng mình sẽ không thể đi qua chỗ kẹt này. Quay lại bây giờ sẽ mất quá nhiều thời gian và ý nghĩ phải đi vòng qua khu rừng vào lúc trời tối không làm anh thấy thích thú chút nào.
“Chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy?” anh hỏi những người lái chiếc xe cuối hàng, hai ông già, một người trông ngái ngủ và người kia trông như đã chết rồi. “Cướp à? Hay Sóc? Nói đi! Tôi đang vội lắm....”
Trước khi họ kịp trả lời, những tiếng la ó vang lên từ đầu hàng. Những người lái xe nhanh chóng nhảy lên và quất những con ngựa và bò của mình. Hàng xe bắt đầu di chuyển. Người ngái ngủ thức dậy trong khi ông già trông như chết nhìn chằm chằm Aplegatt.
“Thật thiếu kiên nhẫn làm sao,” ông ta nói. “Này, con trai, cậu may mắn lắm đó. Nếu cậu mà đến đây từ buổi trưa thì đã phải đứng đợi như bọn tôi rồi. Ai mà chẳng vội, nhưng ai cũng phải chờ hết. Nếu không thì làm sao qua được đường cấm?”
“Con đường bị cấm ư? Sao lại thế?”
“Một con quái vật ăn thịt người kinh khủng nào đó đã xuất hiện, con trai à. Tấn công một hiệp sĩ đang đi cùng người hầu của mình. Người ta nói là nó đã bứt đầu vị hiệp sĩ và moi ruột con ngựa ra. Người hầu may mắn chạy thoát được và quay lại cảnh báo con đường tràn ngập máu....”
“Quái vật nào vậy?” Aplegatt hỏi. “Một con rồng à?”
“Không, không phải một con rồng.” Người kia nói. “Họ bảo là một con “mandygore” hay gì đó. Người hầu nói rằng nó là một loại thú biết bay, to khủng khiếp. Và dữ tợn! Chúng ta đã nghĩ: nó sẽ ăn thịt vị hiệp sĩ béo ngậy và bỏ đi, nhưng không! Thằng con hoang đó ngồi yên trên đường, rú rít, nhe nanh nhe vuốt ra....Thế nên bất kỳ ai lại gần và nhìn trộm được nó một cái đều bỏ xe lại và chạy như ma đuổi. Kẹt xe đến hơn một dặm và xung quanh thì toàn là đầm lầy, không thể quay lại hay đi vòng. Thế nên chúng ta đợi.....”
“Bao nhiêu trai tráng khỏe mạnh!” người đưa thư cười khẩy, “thế mà đứng đực ra ở đây như mấy con lừa. Lẽ ra nên vác rìu đi giết con quái vật luôn rồi.”
“Thì, đã có một số thử rồi,” ông già nói. “Ba người lùn từ đoàn hộ tống của các lái buôn, và đi cùng họ là bốn người lính nghĩa vụ đang trên đường đến lâu đài Carreras để nhập ngũ. Những người lùn bị cấu xé ghê lắm, còn bốn người lính thì.....”
“Bọn thỏ đế,” ông già kia nói nốt. “Chạy mất dép ngay khi vừa nhìn thấy con mandygore. Hình như có thằng còn vãi cả ra quần. Kia kìa, nhìn đi con trai, ngay kia kìa!”
“Tôi không muốn,” Aplegatt làu bàu. “Mấy cái quần bẩn không làm tôi hứng thú cho lắm.”
“Không phải! Con quái vật! Con quái vật đã chết rồi! Các chiến binh đang đặt nó lên một cái xe kìa! Thấy không?”
Aplegatt ngẩng đầu lên. Mặc dù đám đông bu kín lại xem, anh vẫn nhìn ra được một cái xác vĩ đại. Các chiến binh nhấc nó dậy và ném lên xe. Những con ngựa bồn chồn vì mùi hôi, hý lên.
“Đừng dừng lại!” người lính chỉ huy hét lên. “Tiến lên phía trước! Không được chặn đường!”
Các ông già thúc mấy con la. Aplegatt đi theo sau.
“Vậy là có vẻ các chiến binh đã giết được con quái vật?”
“Giá mà như vậy,” ông già cười khẩy. “Khi đến nơi, họ chẳng làm gì ngoài la hét với mọi người. Đứng im, tránh ra chỗ khác, làm cái này, làm cái kia. Họ đâu có chạy ra chỗ con quái vật ngay đâu. Họ đã gọi một witcher.”
“Một witcher sao?”
“Chính xác,” ông già kia xác nhận, “Có ai đó nhớ là đã trông thấy một witcher tại một ngôi làng gần đó, vậy nên họ cho gọi anh ta. Anh ta có đi qua chúng tôi. Tóc trắng, xấu xí với một thanh kiếm to đùng. Chưa đầy một tiếng sau, có ai đó hét lên là con đường đã thông, bởi vì witcher đã giết con quái vật. Vậy nên chúng tôi bắt đầu di chuyển. Và đó là lúc mà cậu đến.”
“Ha!” Aplegatt lầm bầm, lạc trong suy nghĩ. “Tôi đã đi khắp thế giới trong bao nhiêu năm mà chưa từng được nhìn một witcher nào. Có ai đã trông thấy anh ta giết con quái vật không?”
“Cháu thấy!” một cậu bé với mái tóc bờm xờm tiến lại gần chiếc xe từ phía bên kia. “Cháu đã thấy toàn bộ sự việc! Thật đó! Bởi vì cháu đã đứng cạnh mấy người lính, ngay hàng đầu tiên.”
“Kể đi nhóc.”
“Nó như thế này này,” cậu nhóc bắt đầu, “witcher lại gần chỗ người chỉ huy. Nói rằng tên ông ấy là Gernant. Chỉ huy nói là tên gì mặc kệ, miễn sao ông ta làm được việc. Rồi ông ta chỉ cho witcher chỗ của con quái vật. Witcher lại gần, quan sát một lúc rồi bảo đây là một con manticore to khác thường và ông ta sẽ giết nó với giá 200 crown.”
“200?” ông già kêu lên. “Hắn ta điên rồi chắc?”
“Người chỉ huy cũng nói tương tự, nhưng có hơi tinh nghịch hơn chút. Và witcher trả lời rằng đây là mức giá cuối cùng và ông ta không quan tâm, con quái vật có thể ngồi đó đến ngày tận thế cũng được. Người chỉ huy nói ông ta sẽ không trả nhiều như vậy, ông ta thà đợi nó bay đi còn hơn. Witcher bảo là nó sẽ không bay đi đâu, nó đang đói và cáu bẳn. Và kể cả nếu có bay đi thì nó cũng sẽ sớm quay lại khu vực săn mòi...m.....mài....mồi....”
“Đừng có lắp bắp nữa thằng nhãi,” ông già làu bàu. “Kể chuyện gì xảy ra tiếp theo đi.”
“Cháu đang cố đây! Vậy là witcher nói thế này: con quái vật sẽ không đi mà sẽ ngồi đó cả đêm để ăn thịt vị hiệp sĩ – từ từ, bởi vì ông ta mặc áo giáp, khó để moi ra. Thế là các lái buôn tụ tập lại và đề nghị trả 100 crown. Nhưng witcher nói rằng con quái vật tên là manticore và nó rất nguy hiểm, vậy nên họ đi mà nhét 100 crown đó vào mông mình, bởi vì ông ta sẽ không liều cái mông của ông ta chỉ vì số tiền đó. Người chỉ huy bực lên và quát rằng nghề nghiệp của gái điếm và witcher chính là liều cái mông của họ. Nhưng các lái buôn sợ là witcher cũng sẽ bực thế nên họ đồng ý giá 150. Và rồi witcher rút kiếm và đi ra chỗ con manticore. Và rồi người chỉ huy làm dấu thánh về phía witcher, nhổ nước bọt và bảo rằng lũ dị hợm quái quỷ như vậy không nên tồn tại trên đời. Các lái buôn đáp lại rằng nếu quân đội đi giết con quái vật thay vì đùa giỡn với elves trong rừng suốt ngày, thì đã không cần đến witcher làm gì.....”
“Đừng phí thời gian nữa,” ông già cắt ngang. “Nói cho chúng ta biết mày đã trông thấy gì đi.”
“Cháu,” thằng bé nói, “lúc đấy đang bận nhìn con ngựa của witcher, một con ngựa màu hạt dẻ với bờm trắng.”
“Kệ mẹ ngựa! Mày có nhìn thấy witcher giết con quái vật không?”
“Err....cháu không thấy. Cháu bị đẩy ra phía sau. Tất cả mọi người đều la hét và ngựa thì bồn chồn, thế nên.....”
“Đúng như tôi nghĩ,” ông già cười khinh bỉ, “Nó chẳng thấy cái mẹ gì cả, thằng nhãi con.”
“Nhưng cháu có thấy witcher quay lại!” Thằng bé cự nự, “và người chỉ huy, mà đã đứng đó xem từ đầu đến cuối, trông tái nhợt như ma và bảo với lính của mình rằng đó chắc hẳn phải là ma thuật hoặc trò bịp bợm nào đó của elves, bởi vì một người bình thường không thể nào nhanh đến vậy được. Witcher lấy tiền của các lái buôn, cưỡi lên ngựa và đi mất.”
“Hmm.....” Aplegatt lầm bầm, “Anh ta đi về phía nào? Đến Carreras? Nếu vậy thì ta có thể bắt kịp và nhìn anh ta một cái.”
“Không.” thằng bé nói. “Ông ấy đến Dorian. Có vẻ là ông ấy đang vội.”