Zoo

Chương 4 : Thơ của ánh dương

Ngày đăng: 02:56 19/04/20


Tôi mở mắt và nhận ra mình đang nằm trên một cái bệ đặt trong một căn phòng rộng rãi, rải rác đồ đạc. Một người đàn ông lặng lẽ ngồi trên ghế như đang nghĩ ngợi về chuyện xa xôi nào đó. Thấy tôi tỉnh lại, anh ta mỉm cười.



“Chào cô...” Anh ta ngồi bên bàn, quần áo trắng toát. “Anh là ai?” Tôi hỏi.



Anh ta đứng dậy, mở tủ lấy quần áo và giày. “Tôi là người chế tạo ra cô?”



Vừa nói anh vừa bước lại phía tôi. Ánh đèn trên trần hắt xuống nước da nhợt nhạt và mái tóc đen của anh. Anh đặt bộ đồ màu trắng lên đầu gối tôi, bảo tôi mặc vào. Lúc này tôi mới nhận ra mình đang trần trụi.



“Chúc mừng sinh nhật cô!” Anh ta nói.



Quanh chúng tôi bề bộn vô số công cụ và vật liệu, bên chân anh còn có một tập giấy dày cộp. Tôi nhận ra đó là những bản thiết kế.



Đóng bộ xong xuôi, tôi đi theo anh qua một hành lang có rất nhiều cửa sổ, rồi leo lên một cầu thang. Đi hết cầu thang có một cánh cửa. Khi anh mở cửa, quang cảnh hiển hiện trước mắt tôi dưới ánh sáng rực rỡ. Đó là ánh mặt trời. Thì ra tôi đã tỉnh lại dưới hầm ngầm. Nắng khiến cơ thể tôi ấm dần lên.



Chúng tôi ở trên một ngọn đồi mọc đầy cỏ xanh, sườn đồi thoai thoải trải dài, xanh mướt tuyệt đẹp. Gần đỉnh đồi là cửa thông xuống hầm ngầm, được trổ giữa một khối bê tông không mái hình hộp chữ nhật đứng cao bằng người tôi, trên nóc không những đầy cỏ mà còn có cả tổ chim. Một con chim nhỏ từ trên không trung sà xuống tổ của nó.



Tôi quan sát bốn bề. Quả đồi này khum khum, tương đương với 1/3 quả cầu đường kính một ngàn mét, lọt thỏm giữa núi non. Cả một vùng chỉ thấy màu cỏ cây xanh rì. Có lẽ đây là một quả đồi nhân tạo bởi sự lạc lõng của nó giữa địa hình trung điệp này.



“Nhà chúng ta nằm sâu trong khu rừng rậm kia.”



Theo hướng anh chỉ, tôi nhìn xuống phía chân đồi. Ở đó khá dốc, giữa đám cây cối um tùm có một mái nhà nhọn nhô lên.



“Cô sẽ ở trong ngôi nhà đó để phục vụ tôi.” Hai chúng tôi đi về phía ngôi nhà.



Cách khu rừng không xa là một cột gỗ màu trắng buộc hình chữ thập, nổi bật trên triền đồi bằng phẳng. Tôi lập tức đoán ra thứ đó gọi là cây thánh giá. “Đây là một ngôi mộ...”



Anh ta chăm chú nhìn cây thánh giá một lát rồi giục tôi đi tiếp.



Ngôi nhà lớn nhưng rất cũ kỹ, cây cỏ mọc khắp từ chân tường lên mái nhà. Lá cây xanh rờn phủ kín, khiến mái ngói như hòa lẫn với rừng cây. Khoảng không trước nhà có vườn ruộng, giếng nước và cả một chiếc xe tải gỉ sét.



Cửa nhà bằng gỗ được sơn trắng, già cỗi đến mức bong tróc lung tung. Tôi theo anh vào trong nhà, tiếng cót két của sàn gỗ vang theo mỗi bước chân.



Căn nhà có hai tầng rưỡi vì bên trên còn một tầng áp mái. Tôi ở sát bếp tầng một, trong một căn phòng nhỏ có cửa sổ, kê một chiếc giường.



Anh vẫy tôi vào bếp.



“Trước tiên tôi muốn cô pha cà phê.”



“Tôi biết cà phê, nhưng không biết cách pha.” “Ừ, kể cũng phải...”



Anh ta mở tủ lấy ra một ít bột cà phê, đun nước sôi, pha hai cốc cà phê nóng bốc hơi nghi ngút rồi đưa cho tôi một cốc.



“Tôi đã nhớ cách pha rồi. Lần sau tôi sẽ pha.”



Tôi vừa nói vừa nhấp cà phê. Thứ nước đen nóng từ từ chảy vào miệng. “Tôi ghét vị này.”



Nghe tôi báo cáo, anh gật đầu.



“Tôi cũng đoán thế. Cho thêm ít đường sẽ khá hơn.”



Tôi lại nhấp cà phê đã ngọt hơn trước. Đây là dưỡng chất đầu tiên tôi dùng kể từ lúc tỉnh dậy. Các cơ quan trong người tôi bắt đầu hấp thụ bình thường.



Anh đặt cốc cà phê lên bàn, mệt mỏi buông người xuống chiếc ghế cạnh khung cửa sổ treo những vật trang trí bằng kim loại. Những thanh kim loại dài ngắn khác nhau đung đưa trong gió, va chạm phát ra những âm thanh không theo quy tắc. Anh nhắm mắt lắng nghe.



Trên tường gắn một tấm gương nhỏ. Tôi đứng trước tấm gương và nhìn thấy khuôn mặt mình. Tôi biết hình dáng của con người nên biết hình ảnh trong gương là một phụ nữ được chế tạo rất thật, rất hoàn hảo. Ngoài những mạch máu xanh chạy lờ mờ bên dưới làn da trắng, còn có những sợi lông măng được cấy vào, những vết hõm, gò má và cả sắc hồng được trang trí thêm. Thân nhiệt và các bộ phận khác đều được mô phỏng như của con người.



Tôi nhìn thấy trong tủ bếp có tấm ảnh rất cũ. Bức ảnh có anh và một người đàn ông tóc bạc đang đứng trong ngôi nhà này. Tôi ngoảnh lại hỏi: “Ngoài anh ra, những người khác đang ở đâu?”



Anh ta đang ngồi trên ghế nên tôi chỉ nhìn thấy lưng, anh ta không ngoảnh lại, trả lời tôi:



“Không ở đâu hết.”



“Không ở đâu hết, nghĩa là sao?”



Anh nói, loài người gần như đã diệt vong chỉ trong vòng hai tháng kể từ khi mầm bệnh đột nhiên phát tán tràn lan. May sao trước khi dịch bệnh xảy ra, anh và người chú ruột đã chuyển đến đây. Nhưng ông nhiễm bệnh và mất ít lâu sau đó, anh chôn cất ông ở nơi chúng tôi vừa đi qua và sống một mình cho đến giờ. Thì ra, cây thánh giá màu trắng là mộ của chú anh.



“Hôm qua tôi đã kiểm tra, và biết mình bị nhiễm bệnh.” “Anh sắp chết phải không?”



Anh khẽ gật đầu.



“Thực ra tôi rất may mắn vì mấy chục năm mà không hề nhiễm bệnh?” Tôi hỏi tuổi, anh nói mình đã gần 50 tuổi.



“Anh không giống người già, tôi nghĩ anh khoảng 20 tuổi.” “Đó là do một số tác động.”



Anh nói con người chỉ cần làm vài phẫu thuật là có thể sống đến 120 tuổi. “Nhưng nhân loại vẫn không thể chiến thắng mầm bệnh.”



Tôi quan sát các thứ có trong nhà bếp. Trong tủ lạnh có rau quả, gia vị và thực phẩm đông lạnh, chỉ cần rã đông là dùng được. Bếp điện hễ bật công tắc thì sẽ từ từ nóng lên, bên trên còn đặt một chiếc chảo rán xong chưa rửa.



“Anh hãy đặt tên cho tôi?” Tôi đề nghị.



Anh chống hai khuỷu tay lên bàn, nhìn ra ngoài cửa sổ. Một cánh bướm rập rờn trên thảm cỏ.



“Không cần thiết phải thế.”



Gió lùa qua cửa sổ, những mảnh kim loại trang trí đung đưa, phát ra âm thanh lảnh lót.



“Sau khi chết, tôi muốn được chôn trên đồi. Đào một cái huyệt bên cạnh cây thập tự đó, đặt xuống lấp đi là xong. Đây là lý do tại sao tôi phải chế tạo ra cô.”



Anh ta chăm chú nhìn tôi.



“Tôi hiểu rồi. Tôi được chế tạo ra để chăm sóc và chôn cất cho anh.” Anh ta gật đầu.



“Đó là lý do cô tồn tại.”



Tôi cầm chổi và giẻ lên, quét sàn rồi lau cửa kính. Anh vẫn ngồi nhìn qua cửa sổ.



Khi hất những bụi bặm qua ô cửa ra vườn, tôi phát hiện một con chim nằm trên mặt đất. Nó chỉ nằm bất động, hình như đã chết rồi. Tôi ra ngoài và nhặt nó lên. Cơ thể nhỏ bé đã lìa đời đó lạnh băng.



Không biết từ lúc nào anh đã đứng bên cửa sổ, nhìn con chim trên tay tôi. “Nên làm gì với nó đây?” Anh ta hỏi.
Tôi sống bên anh với tâm trạng phức tạp, vừa cảm kích, vừa căm giận. Nhưng tôi giấu kín trong lòng. Khi mang cà phê đến bên giường, nếu tay anh run, tôi sẽ ghé cốc lên miệng cho anh.



Anh không cần thiết phải biết rõ những trăn trở trong lòng tôi. Tôi nghĩ, trưa mai, tôi sẽ chỉ nói với anh “Cảm ơn anh đã chế tạo ra tôi.” Như thế, anh không còn gì phải tiếc nuối khi “cái chết” đến nữa.



Tôi chạm vào con thuyền buồm với những mảnh ghép đỏ thắm. Tuy nén được nỗi hờn giận nhưng tôi thấy nghẹt thở. Tôi hoang mang trong cảm giác mình đang lừa dối anh.



Mảnh ghép tôi chạm vào bỗng tuột ra, rơi xuống sàn, phần lớn con thuyền rào rào đổ sụp. Tôi vừa vun những mảnh ghép lại vừa nghĩ xem mình nên thế nào. Tôi không phải con người nên không thể làm những việc có tính sáng tạo như hội họa, điêu khắc hay âm nhạc. Sau khi anh chết, những mảnh lắp ghép này sẽ mãi mãi rời rạc tả tơi.



Bỗng tôi nhớ ra, mình đã chứng kiến anh lắp ghép một lần, bây giờ tôi thao tác từng bước theo thứ tự như anh đã làm. Tôi cứ men theo ký ức của mình, con thuyền dần dần hiện ra dưới đôi tay tôi.



Tôi vừa làm vừa quệt nước mắt. Có phải thế không... Có phải thế không...



Tôi thầm lặp đi lặp lại.



Hôm sau, trời quang đãng. Bầu trời xanh trong, cao vút không một gợn mây. Tôi ra giếng nước đánh răng, anh thì vẫn ngủ. Nước trong thùng kéo lên sóng sánh, bắn tung tóe lên cỏ và hoa quanh giếng, chúng vươn mình đón nhận. Những hạt nước đọng trên cánh hoa long lanh rồi lăn xuống, lấp lánh ánh mặt trời.



Mấy hôm liền âm u, quần áo đã giặt vẫn chưa khô, tích tụ trong nhà. Tôi trở vào lấy đám quần áo trắng của tôi và anh đem ra vườn phơi nắng. Mọi cử động khiến những mảnh băng quấn trên người tôi lỏng ra, tôi buộc lại rồi tiếp tục phơi quần áo lên sào tre.



Xong xuôi, tôi bỗng cảm nhận được ánh mắt của anh nhìn ra từ cửa sổ. Không phải cửa sổ phòng anh đang nằm, mà là cửa sổ ở hành lang, nơi có ánh mặt trời. Tôi kinh ngạc hỏi:



“Anh dậy như vậy có sao không?”



Anh đang ngồi trên chiếc ghế dài bên cửa sổ. “Tôi muốn chết trên chiếc ghế này.”



Hình như anh đã dồn hết sức lực mới lết ra được đến đây.



Tôi bước vào ngồi bên cạnh anh, rồi nhìn ra ngoài vườn. Số áo quần vừa phơi sáng lóa, phấp phới đung đưa trong gió làm giếng nước lúc ẩn lúc hiện. Khung cảnh buổi sớm tuyệt đẹp ấy đâu có dấu hiệu gì của cái chết?



“Còn lại bao nhiêu thời gian?”



Tôi hỏi, mắt vẫn nhìn ra ngoài vườn. Anh không nói gì. Sau một lúc yên lặng, anh mới nêu một con số tính bằng đơn vị giây.



“Cái chết do mầm bệnh này sẽ đến rất chính xác hay sao?” “... Có lẽ thế.”



Anh hờ hững đáp. Tôi căng thẳng thăm dò:



“... Anh không đặt tên cho tôi, vì đó là một công việc sáng tạo rất khó, giống như không thể sáng tác ra tranh ảnh hoặc âm nhạc phải không?”



Anh không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa, mà quay sang nhìn tôi.



“Tôi có thể biết chính xác thời gian chết của mình tính bằng giây. Đó là vì những cá thể như tôi đã được thiết kế và cài đặt thời gian sinh tồn. Và, anh...”



Anh không hề nhiễm bệnh. Anh có thể lắp được con thuyền bởi đã từng chứng kiến con người làm như thế. Trong cái thế giới mà loài người đã tuyệt diệt, chỉ có mình anh không chết, anh sống cho đến hôm nay.



Anh nhìn mãi vào tôi, rồi cúi đầu rất thấp. Mặt anh trắng bệch đi. “Bấy lâu nay tôi vẫn giấu cô. Tôi xin lỗi...”



Tôi ôm lấy anh, áp tai vào ngực anh. Có tiếng mô tơ khe khẽ. “Tại sao anh phải giả vờ làm con người?”



Anh nói với tôi về niềm ngưỡng mộ chân thành đối với ông chú bằng giọng rất khẽ. Người “chú” ấy chính là người đã chế tạo ra anh. Tôi thường nghĩ nếu tôi là con người thì hay biết mấy. Hóa ra anh hệt như tôi.



“Ngoài ra, tôi còn lo sợ tôi không thuyết phục nổi cô.”



Được chế tạo ra bởi con người sẽ tốt hơn từ bàn tay của một kẻ nhân tạo.



Anh nghĩ như thế sẽ khiến nỗi khổ tâm của những thứ như anh và tôi vơi đi. “Anh là một kẻ ngốc.”



“Tôi biết.”



Nói đoạn, anh đặt tay lên đầu tôi trong khi tôi vẫn áp tai vào ngực anh. Ít ra với tôi, anh là một con người thực thụ. Tôi ôm anh thật chặt. Thời gian còn lại đang vơi dần.



“Tôi muốn được chôn cất bên cạnh ông ấy, nên mới cần một người có thể đắp đất lên người tôi. Tôi thật ích kỷ khi chế tạo ra cô.”



“Anh đã sống một mình ở đây bao nhiêu năm rồi?” “Từ khi ông ấy chết, đã hai trăm trôi qua.”



Tôi thông cảm với anh. Vào lúc cái chết tìm đến, có một người nắm chặt bàn tay mình thì tốt biết mấy? Tôi muốn ôm anh thật chặt để đến khi từ giã, anh sẽ



không cảmìnhthcấôy m đơn.



Khi tôi sắp chết, có thể tôi sẽ làm một việc như anh. Bản vẽ thiết kế, linh kiện, dụng cụ đều cất trong tầng hầm. Đến khi nào tôi cảm thấy cô đơn không sao chịu nổi nữa, có lẽ tôi sẽ muốn sáng tạo ra một sinh mệnh mới. Anh đã cho phép tôi làm thế.



Tôi và anh cùng ngồi trên chiếc ghế dài suốt buổi sáng yên tĩnh. Tai tôi luôn áp vào ngực anh. Anh chỉ im lặng và chăm chú nhìn ra đám quần áo đang đung đưa trước gió bên ngoài ô cửa sổ.



Kể từ lúc được chữa trị, cơ thể tôi luôn bị bó trong băng gạc. Dải băng quấn quanh cổ tôi bị trễ, anh nhẹ nhàng chỉnh lại cho tôi. Ánh nắng xuyên qua cửa sổ chiếu vào đầu gối tôi. Thật ấm áp. Thế rồi, tôi cảm thấy những ấm ức trong lòng đã tan biến từ bao giờ không hay.



“... Cảm ơn anh đã chế tạo ra tôi.”



Đó là lời nói thật lòng. “Nhưng tôi ghét anh...”



Tai vẫn áp trên ngực anh nên không nhìn thấy vẻ mặt anh, nhưng tôi biết anh



đang gật đầu.



“Nếu anh không chế tạo ra tôi để chôn anh, chăm nom cho cái chết của anh, thì tôi không cần phải chịu đựng nỗi sợ hãi đối với cái chết và không bị giày vò bởi sự mất mát.”



Ngón tay yếu ớt của anh khẽ lướt qua mái tóc tôi.



“Càng yêu thích bao nhiêu, khi mất đi rồi, lòng tôi càng đau xót bấy nhiêu. Cứ thế lặp lại mãi, tôi vẫn phải chịu đựng nỗi khổ sở, vẫn phải sống quãng đời còn lại của mình. Sự thật này sao mà tàn khốc! Giá mà tôi được làm một hình nhân không có cảm xúc, không có trái tim...”



Tiếng chim hót vọng vào. Tôi nhắm mắt, tưởng tượng ra những cánh chim nhỏ lướt qua bầu trời xanh. Khóe mắt tôi trào lệ.



“Nhưng bây giờ tôi vẫn cảm ơn anh. Nếu không được sinh ra trên thế giới này, tôi sẽ không nhìn thấy thảm cỏ phủ khắp đồi. Nếu không được lắp trái tim, tôi sẽ không thể hưởng thụ niềm vui nhìn thấy tổ chim và không thể nhăn nhó vì cà phê đắng. Tôi còn được nhìn thấy những lằn chớp sáng ngang trời. Có những nỗi đau muốn rỉ máu, nhưng đó là minh chứng cho sự sống của tôi.”



Vừa cảm ơn lại vừa căm ghét, hẳn là rất kỳ quái phải không? Nhưng đúng là tôi nghĩ như vậy, và tôi cho rằng mọi người đều như thế. Trước khi loài người diệt vong, những đứa con của họ đã sống trong tâm trạng đầy mâu thuẫn đối với cha mẹ đấy thôi! Chúng được học về yêu thương và chết chóc, chúng vẫn sống trong chuỗi chắp nối giữa ánh dương và bóng tối.



Rồi chúng sẽ trưởng thành, và lần lượt chúng gánh vác trách nhiệm sáng tạo ra sinh mệnh mới. Ở ngọn đồi kia, bên cạnh nơi chú anh an nghỉ, tôi sẽ đào một huyệt mộ, đặt anh vào đó rồi lấp đất lên như đắp cho anh một tấm chăn. Tôi sẽ đem cỏ hoa đang mọc bên giếng nước trồng lên đó và dựng một cây thập tự. Mỗi sáng tôi sẽ đến thăm anh và mỗi chiều tà sẽ kể cho anh nghe những chuyện đã xảy ra trong ngày.



Thời gian lặng lẽ trôi đi trên chiếc ghế dài, đến trưa, tôi nghe thấy tiếng mô tô trong người anh nhỏ dần, rồi im hẳn. Chúc ngủ ngon, tôi thì thầm trong lòng.