Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 12 : Lĩnh nam bảo quốc hoà dân công chúa

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Lĩnh Nam Bảo Quốc Hoà Dân Công Chúa --



Đến đó cuộc đối thọai của hai người tạm ngừng, vì có nhiều tiếng pháo nổ, tiếng người vỗ tay. Thì ra Đinh Ngô-Thương tổng-trấn Thanh-hóa đứng ra chúc tụng Mỹ-Linh. Y đến trước Mỹ-Linh cung kính hành lễ. Y nói thực lớn:



- Hạ thần, Đinh Ngô-Thương, tổng trấn Thanh-hóa kính cẩn ra mắt công chúa điện hạ. Kính chúc công chúa điện hạ thánh thể an khang, tâm thường an lạc.



Sau đó Đinh Ngô-Thương ê a kể lể công việc cai trị trong trấn, toàn những kết qủa tốt đẹp. Sau Đinh Ngô-Thương đến các quan, lần lượt đến bái yết công chúa, dâng lễ vật. Đợi cho các quan bái yết xong, Mỹ-Linh vận nội lực nói lớn:



- Tuân chỉ dụ của đức Thuận-thiên hòang đế. Hôm nay tôi tới đây để cùng các vị dự lễ tế Bà-vương. Như các vị đã biết, kể từ khi lập quốc đến giờ, vùng Thanh-hóa của ta thời nào cũng nảy sinh ra các bậc anh tài phò vua, cứu nước. Thôn nào, xóm nào cũng có bậc hiền tài làm gương cho dân chúng. Chịu gian lao suốt đời, mưu cứu nước như anh hùng Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại, Đào Thế-Hùng. Lập đại công với quốc gia, khảng khái tuẫn quốc như Đào Kỳ, Đào Hiển-Hiệu, Đào Phương-Dung, Quách Lãng. Cũng đất này, anh hùng Đô Dương, Chu Bá, Nguyễn Thành-Công tử thủ chống giặc Hán. Thế rồi, hai trăm lẻ năm năm sau, các anh hùng Cửu-chân lại cùng Triệu Trinh-Nương, nổi dậy đánh giặc Ngô. Sự tuy không thành, song khí tiết anh hùng, muôn đời không phai. Hôm nay chúng ta cùng tụ lại đây để tưởng nhớ công lao các bậc tiền nhân. Hoàng đế có ban sắc chỉ gia phong cho các anh hùng tuẫn quốc đồng thời với Triệu Trinh-Nương.



Lê Thuận-Tông ngồi sau đạo-sư Nùng-Sơn tử. Nó hỏi:



- Sư phụ. Đức hoàng đế ban sắc chỉ phong thần cho bà Triệu cùng các tướng của bà, đây là lần đầu tiên trong lịch sử hay vốn có từ trước?



Nùng-Sơn tử, sẽ vỗ tay vào vai đệ tử:



- Con hỏi câu đó thực phải. Để thầy nói cho con nghe về điển lệ Đại-Việt. Chắc con biết Quốc-tổ, Quốc-mẫu lập quốc ra sao rồi chứ?



- Thưa thầy con biết.



Nùng-Sơn tử tiếp:



- Khi đức hoàng đế bản triều vừa lên ngôi (1010), ngài nghĩ ngay đến việc phong thần cho các anh hùng dựng nứơc, qui luật đã định rõ ràng. Đầu tiên là những vị được tôn phong. Tôn phong khác với tấn phong. Tôn có nghĩa là những bậc có địa vị qúa cao, hơn hẳn hoàng đế. Hoàng đế chỉ dám « tôn » chứ không dám phong tặng. Đó là các vị được tôn lên hàng quốc tổ như Phục-hy, Thần-nông, Hùng-vương (gồm các vua Hùng từ Kinh-dương vương, Lạc Long-Quân trở xuống), An-dương vương. Triều đình truyền xây đựng đền thờ khắp nơi. Hằng năm các ngày giỗ, ngày đản sinh, tổ chức hội rất lớn. Tại Thăng-long chính hoàng đế đứng chủ lễ. Tại địa phương, thì quan chức cao nhất đứng chủ tế. Mọi chi phí do công qũi đài thọ. Lọai thứ nhì là các bậc thánh. Thánh có thánh Gióng tức Phù-đổng Thiên-vương, thánh Chèm tức Vạn-Tín hầu Lý Thân, Nhị Thánh tức hai bà Trưng. Sau, Lão-học ngày càng ảnh hưởng rộng, thêm hai vị thánh nữa là Chử Đồng Tử và Tiên-Dung . Thứ ba đến các thần. Thần chia làm năm bậc khác nhau. Bậc cao nhất là các anh hùng dựng nước, có huân công với dân tộc như Đào Kỳ, Phương-Dung, Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa, Đàm Ngọc-Nga, Triệu Trinh-Nương, Ngô Quyền v.v. Bậc thứ nhì là các thần hiển linh, giúp đỡ, che chở cho dân chúng, được gọi là phúc thần. Các quan địa phương theo thỉnh nguyện của dân chúng dâng biểu về triều. Bộ lễ có bổn phận cứu xét, rồi tâu lên hoàng đế ban sắc phong. Bậc thứ ba, là những vị có công với thôn xóm. Khi chết dân chúng thờ cúng. Những vị đó dù không hiển linh cũng vẫn được phong. Thứ tư là những vị thần trong truyền kỳ, như thần sông, thần núi, thần sấm, thần sét. Những lọai thần này nếu hiển linh giúp dân. Quan địa phương theo thỉnh nguyện của dân chúng, dâng biểu về triều. Bộ lễ cứu xét một lần nữa, nếu có gì nghi hoặc, bộ cho điều tra lại, rồi thượng biểu lên hoàng đế, ban sắc phong.



Ông ngừng lại cho học trò theo kịp, rồi tiếp :



__ Đối với bà Triệu, hồi tiền Lý. Vua Lý Nam-Đế đã ban sắc phong cho bà vào năm Giáp-tý (544 sau Tây-lịch). Đến thời Lý lại một lần nữa ban chỉ dụ tu bổ đền thờ cùng lăng bà. Tuy các đời trước chỉ phong bà là thần, họăc công chúa họăc linh thần. Song dân chúng vẫn gọi bà là Lệ-hải Bà-vương. Hôm nay công chúa đem sắc chỉ của Thuận-thiên hoàng đế đến tế lăng bà Triệu, truy phong bà cùng các vị anh hùng theo bà khởi nghĩa.



Nghi lễ tế bắt đầu.



Hà Thiện-Lãm, Trần Anh đến ngồi cạnh Thanh-Mai. Thanh-Mai hỏi:



- Nãy đến giờ hai em đi đâu?



- Bọn em tuân lệnh anh ba Tạ Sơn theo dõi một bọn Tầu. Chúng ẩn ẩn hiện hiện đó vẻ gian dối. Anh Sơn dặn bọn em báo cho chị biết, phải tối cẩn thận. E chúng ám sát chị Mỹ-Linh.



Thanh-Mai gật đầu:



- Em yên tâm.



Từ hồi có trí nhớ, Lãm, Tông từng xem tế nhiều lần. Chúng xem chỉ để mà xem, tuyệt không hiểu những động tác đó ra sao. Bây giờ bên cạnh chúng có Thanh-Mai. Trong tâm tưởng, chúng cho rằng cái gì Thanh-Mai cũng biết, chúng tha hồ mà hỏi.



Thiện-Lãm hỏi Thanh-Mai:



- Thông thường tế các thần khác, tam sinh gồm trâu, dê, lợn. Hôm nay tế bà Triệu lại thay trâu bằng nai. Em đố chị biết tại sao đấy?



- Chắc hồi còn sống bà thích ăn thịt nai?



- Không phải. Đương thời, bà Triệu cấm giết trâu, bò, hầu giữ hai con vật này, dùng cầy cấy.



- Nai thì làm sao tĩnh sinh được?



Thiện-Lãm nhăn mặt:



- Tĩnh sinh là gì vậy?



- Em không biết à? Trước khi tế một ngày, chủ tế phải làm lễ cáo yết, dắt tam sinh ra khám xét xem chúng có thực khỏe không? Có béo tốt không? Có sạch sẽ không. Sau khi biết chắc tam sinh thực tốt, ông cầm chén rượu đổ vào đầu chúng. Sau đó người ta mới giết chúng. Lễ đổ rượu có tên tĩnh sinh.



Thiện-Lãm hiểu được ý nghĩa đổ rượu vào đầu tam sinh. Nó sướng quá, hỏi:



- Mọi năm, trước khi tế một ngày, ban trị sự mặc áo thụng, đem kiệu đến nhà vị làm văn tế, rước bản văn về. Người viết văn tế cũng phải đội mũ, mặc áo thụng đi theo. Tới đền, ông chủ tế ra đón vào. Sao năm nay không có lệ đó?



Thanh-Mai bẹo má nó:



- Hai thằng giặc này! Hôm qua Mỹ-Linh nói rồi, không nhớ sao?



- Ừa nhỉ! Năm nay quan đại học sĩ trong triều làm văn tế. Bản văn rước từ Thăng-long về đây được mấy ngày rồi. À, em hỏi, ngoài Bắc tế có giống như ở đây không?



- Giống! Việc tế tự tối quan trọng. Vì vậy thời vua Đinh, đã ban hành bộ Quốc-triều điển lệ , ấn định rõ phương thức tế tự, thờ cúng. Vì vậy cả nước tế giống nhau.



Thời Lý, việc tế ấn định như sau: đầu tiên phải có một người chủ tế. Chủ tế có thể chọn một vị đạo cao đức trọng, hoặc một vị khoa bảng. Khi tế những anh hùng, thường chọn những vị có chức tước cao nhất. Bốn người bồi tế. Bồi tế đứng sau chủ tế năm bước. Bồi tế cứ theo chủ tế. Chủ tế làm gì, cũng làm như vậy.



Ngoài sân, các quan viên tế đã đứng vào chỗ. Thiện-Lãm nhận ra các chức sắc, nó nói:



- Ông chủ tế họ Đinh tên Ngô-Thương, hiện làm tổng trấn vùng Thanh-hoá. Bốn ông bồi tế gồm Tuyên-vũ sứ Đàm Toái-Trạng, còn ba ông kia thuộc kỳ hào vùng này.



Thanh-Mai hỏi:



- Hai ông Đông xướng, Tây xướng kia là ai?



- Ông Đông xướng là Đề-đốc thủy quân. Còn ông Tây xướng coi kị binh trấn này.



Nó hỏi Thanh-Mai:



- Tại sao lại có hai ông đứng quay mặt vào bên phải, bên trái chủ tế vậy?



Thanh-Mai nhắc sẽ:



- Hai ông đó có tên nội tán hầu nhắc chủ tế phải làm gì.



- Như vậy tức nhiên hai ông tán ra lệnh cho chủ tế phải không? Còn hai mươi ông đứng hai bên kia để làm gì?



- À, họ có tên chấp sự lát nữa sẽ dâng hương, dâng rượu, hoặc chuyển đọc chúc văn. Nghĩa là làm những việc lặt vặt.



Đến đó quan viên tế đều vào chỗ, áo thụng như đại triều, mũ cánh chuồn, đai ngọc. Người đồng văn cầm dùi đánh ba hồi trống tế mở đầu. Ông Đông xướng hô lớn:
Phò-mã Thân Thừa-Quý nghiêm nghị hỏi Đông-Sơn lão nhân:



- Người đường đường là một trong bốn đại cao thủ bậc nhất Trung-nguyên. Hà cớ gì vượt biên vào Đại-Việt ta làm truyện ám muội. Như vậy chẳng hóa ra tự mình làm hại thanh danh mình ư?



Đông-Sơn lão nhân cười khành khạch:



- Ta không ngờ một vị phò-mã văn võ kiêm-toàn như Thân lạc-hầu mà cũng không thông thế tục. Ta sang đất Giao-chỉ một cách đường đường chính chính, sao lại bảo rằng mất tinh thần võ-đạo Hoa-sơn?



Đàm Toái-Trạng bước ra chỉ mặt Đông-Sơn:



- Người là ai? Tên gì? Đến trấn Thanh-hóa của ta ăn nói vô phép. Bộ người chê gươm ta không sắc sao?



Nói xong, Trạng hô lớn:



- Quân bay, chuẩn bị cung nỏ.



Hơn trăm cung thủ hướng vào nhóm người Địch Thanh. Địch Thanh cười nhạt:



- Ta tưởng đến Cửu-chân sẽ gặp được nhiều nhân vật kỳ vĩ võ-lâm Giao-chỉ. Không ngờ chỉ gặp bọn hèn hạ, dùng binh đội đàn áp người.



Đàm Toái-Trạng cười nhạt:



- Bản-nhân là an-vũ-sứ trấn Thanh-hóa. Bản nhân chỉ biết luật pháp của đức hoàng-đế Đại-Việt chứ không cần biết luật lệ võ-lâm. Bản nhân có bổn phận bắt gian nhân. Bọn mi đến đây quấy rối trong trấn. Bản nhân hãy bắt để xét xử. Các ngươi có chịu buông vũ khí chịu trói hay không? Bằng không bản nhân hạ lệnh buông tên.



Địch Thanh cười khinh khỉnh:



- Chúng ta là tùy tùng của sứ đòan Thiên-triều, mượn đường qua đây để vào Chiêm-quốc. Người chẳng qua là một tên an-vũ-sứ của đất Giao-chỉ, mà cũng dám hỗn láo với chúng ta ư?



Đàm Toái-Trạng cười nhạt:



- Thì ra các vị là khâm sai Thiên-triều đấy. Xin các vị cho bản nhân được coi thẻ bài.



Địch Thanh luống cuống:



- Chúng ta không có.



Đàm Toái-Trạng nạt lớn:



- Quân bay đâu, gô cổ chúng nó lại.



Đông-Sơn lão nhân hỏi



- Xin an-vũ-sứ cho biết chúng tôi phạm tội gì?



Toái-Trạng nói:



- Thứ nhất, bọn mi nhập bản quốc không có thẻ bài của quan tổng-trấn Bắc-cương. Ta phải bắt mi điều tra xem mi đến bản quốc với mưu đồ gì. Thứ nhì, mi đến giữa hội tế Bà-vương gây hỗn loạn, đó là tội đại-bất kính. Chiếu luật Đại-Việt, phải tội phanh thây.



Toái-Trạng chỉ vào gã ăn mày bị bắt trói:



- Huống hồ tên này cùng bọn với mi. Y giết mệnh quan triều đình trong khi thi hành sắc chỉ của hoàng-đế, lại mưu sát công-chúa. Hai tội ấy đều phải lăng trì.



Đông-sơn lão-nhân đưa mắt cho Địch Thanh hỏi ý kiến. Địch Thanh dáo dác nhìn khắp nơi như muốn tìm ai. Song nhìn mãi cũng không thấy. Suy nghĩ một lát y nói:



- Sư phụ. Mình cứ chịu trói đi, rồi tính sau. Khổng-tử còn chịu buông xuôi để tránh tai nạn tại nước Trần mà.



Toái-Trạng ra lệnh cho Thiên-tử-binh trói ba người lại.



Cuộc tế lại tiếp tục. Một văn quan được chỉ định thay thế người đã chết đọc văn tế. Cuộc tế chấm dứt.



Vừa lúc đó, có tiếng tù và thổi, rồi một kỵ binh tay cầm cờ phi như bay lên đồi. Quân canh phòng tránh dạt sang hai bên. Mọi người đều biết rằng đó là ngựa lưu-tinh chạy trạm.



Thời Lý dùng phương tiện truyền tin giống như thời Lĩnh-nam. Trên đường từ các huyện về trấn, đều có những trạm thông tin. Như tại huyện có tin tức, thư tín khẩn, muốn trình về quan tổng-trấn, dùng phương tiện này. Một viên kỵ binh, đeo cái túi vải trước ngực. Trong túi đựng công văn khẩn, rồi phi ngựa từ huyện tới trạm thứ nhất. Tới nơi, trao túi cho viên kỵ binh thứ nhì. Viên này lại phi tới trạm thứ ba. Cứ như thế cho tới trấn. Bất cứ quan, quân, dân lớn nhỏ thấy ngựa lưu tinh đều phải tránh xa. Ai không tránh, phạm tội ngăn trở việc quốc-gia đại sự, phải tội chém.



Viên kỵ binh xuống ngựa đến trước Đàm Toái-Trạng kính cẩn trình lên cái túi trước ngực. Đàm Toái-Trang mở túi ra, lấy công-văn đọc. Y đọc xong đến trước Mỹ-Linh, cúi rập người xuống:



- Khải tấu công chúa điện-hạ, có văn thư khẩn của Khu-mật-viện nói rằng Thiên-tử triều Tống là Thiên-thánh hoàng đế (Tống Nhân-tông) gửi một sứ-đòan sang Chiêm-thành. Sứ đòan sẽ qua trấn Cửu-chân. Khu-mật-viện còn ban lệnh rằng, các quan trấn thủ dọc đường phải cung ứng mọi nhu cầu cần thiết như nhà ở, người hầu, lương thực, cùng sai binh tướng hộ vệ. Lệnh này trái với lệnh cách đây nửa tháng. Cách đây nửa tháng, lệnh nói rằng: sứ đoàn mượn đường qua Chiêm-thành. Không cần hộ vệ, cung ứng nhu cầu ẩm thực cùng tiếp đãi . Tiểu nhân thực không hiểu.



Lý Mỹ-Linh vẫy tay gọi Đinh Ngô-Thương, Đàm Toái-Trạng tới cạnh. Nàng nói nhỏ:



- Khu-mật-viện đổi lệnh, tức là hoàng-thượng đã biết rõ sứ-đòan giả mượn đường để do thám cùng ăn cắp di-thư. Như thế Khu-mật-viện muốn chúng ta thù tiếp, hộ vệ, tức là canh gác họ.



Đàm Toái-Trạng ngơ ngác:



- Truyện mới xẩy ra hai ngày. Bọn hạ thần chưa tấu về triều, sao hoàng-thượng đã biết?



Phò-mã Thân Thừa-Quý nói:



- Vậy chắc chắn sứ-đoàn không có bọn Đông-sơn lão nhân rồi. Vì cách đây hơn tháng, ta với công-chúa được tin báo có bọn gian phi Tống đột nhập vào lãnh địa các khê-động, thuyết phục các động-chủ, trang chủ phản Việt đầu Tống. Ta lập tức cho người theo dõi. Thì ra chúng có đến ba đòan. Ta đánh đuổi hai đòan về Ung-châu. Còn bọn mới tới là bọn này đây. Võ công bọn chúng rất cao cường. Chúng ta âm thầm theo chúng từ Lạng-châu tới Thăng-long. Song chúng không ở lại Thăng-long, mà khẩn cấp lên đường đi Trường-yên. Tại Trường-yên chúng dò thám phủ Khai-quốc vương. Phủ Khai-quốc vương canh phòng cực kỳ chu đáo. Chúng vừa lọt vào đã bị bại lộ. Cao thủ trong phủ Khai-quốc đông như vậy, mà cũng không bắt được chúng.



Đàm Toái-Trạng vừa định lên tiếng hỏi, thì từ dưới đồi, một đòan người ngựa đi lên. Dẫn đầu là Triệu Thành, phía sau còn có bọn Triệu Huy, Vương Duy-Chính. Tay Triệu Huy cầm cây cờ lớn, trên đề chữ Sứ đòan Đại-Tống . Triệu Huy hô lớn:



- Bách quan trấn Cửu-chân, thuộc Giao-chỉ mau mau tiếp sứ thần Thiên-triều.



Sứ đoàn Bình-nam vương Triệu Thành đến Đại-Việt bằng đường Khâm-châu, chứ không bằng đường Ung-châu như thường lệ. Sự thực một bộ phận phụ do bọn Địch Thanh, Đông-Sơn lão nhân theo đường Ung-châu vào dò thám vùng Quảng-nguyên, Lạng-châu. Không ngờ bọn này bị công chúa Bảo-Hòa và phò mã Thân Thừa-Quý khám phá ra, theo dõi rất gắt.



Thủ tục ngọai-giao thời Lý-Tống như sau: Khi sứ đoàn Trung-quốc tới biên giới, báo cho quan trấn-thủ. Quan trấn-thủ có bổn phận tiếp đón cung cấp chỗ ăn, ở, cùng người hầu, kể cả người tắm ngựa, cỏ, cho ngựa ăn. Sau đó cho ngưạ lưu-tinh báo về triều. Triều đình cử quan lên bên giới tiếp dẫn sứ-gỉa đến Thăng-long. Thường là lễ-bộ thượng-thư. Khi sứ đoàn tới nơi, thì thái-tử hoặc hoàng đệ sẽ mở cửa thành ra đón. Thành Thăng-long có các cửa Tường-phù, Quảng-phúc, Đại-hưng và Diệu-đức. Thông thường thì thái-tử mở cửa Đại-hưng ra đón sứ đoàn. Sứ đoàn được hướng dẫn tới cư ngụ ở điện Long-an. Ngày đầu, thái-tử chiêu đãi, trao đổi quà tặng. Ngày thứ nhì chánh, phó sứ vào yết kiến vua ở điện Kiền-nguyên, đọc chiếu chỉ của vua Tống sắc phong cho vua Lý. Song lần này sứ đoàn Bình-nam vương Triệu Thành không đến Đại-Việt, mà chỉ mượn đường sang Chiêm. Vì vậy triều đình cử Dực-thánh vương, em trai của vua hoàng đế lên châu Vĩnh-an đón, hương dẫn về tới Thăng-long, đãi tiệc tặng quà. Bình-nam vương Triệu Thành tự giới thiệu là người trong võ-lâm, không muốn những nghi thức phiền toái. Thành xin Dực-thánh vương để cho sứ đoàn tự tại. Thành xin triều đình sức giấy cho các trấn dọc đường giúp đỡ phương tiện khi được yêu cầu là đủ. Khu-mật-viện lập tức đạt giấy đi khắp nơi.



Nào ngờ Bình-nam vương Triệu Thành, dùng cái vẻ bề ngoài là võ-lâm, không cần nghi-thức, để dễ bề do thám, và nhất là tìm di thư thời Lĩnh-nam. Ngay khi rời Thăng-long lên đường đi Chiêm-quốc, Thành chia sứ đoàn làm hai. Một do Triệu Anh, Ngô Tích, Triệu Huy, Quách Quỳ lên đường đi Cửu-chân trước. Còn một do Triệu Thành dẫn Minh-Thiên, Vương Duy-Chính đi vòng sang Thiên-trường dò thám khu vực ảnh hưởng của phái Đông-a.



Ghi chú:



Công-chúa Lĩnh-Nam Bảo-quốc hòa dân tại chùa Kiến-sơ thuộc xã Phù-đổng, huyện Gia-lâm, Hà-nội. Chùa xây năm 820, ngay cạnh đền thờ thánh Gióng (Phù-đổng Thiên-vương)