Anh Hùng Tiêu Sơn
Chương 17 : Lĩnh nam vũ kinh
Ngày đăng: 12:10 18/04/20
Lĩnh Nam Vũ Kinh ---
Thình-lình Triệu Huy lao người lại chỗ bụi hoa ba người nấp. Y xử dụng một thế hổ trảo chụp Mỹ-Linh. Thanh-Mai vọt người lên cao. Từ trên cao nàng phóng một chưởng xuống đầu Triệu Huy. Triệu Huy vội thu tay về biến thành chưởng đỡ chưởng của Thanh-Mai. Bình một tiếng, Thanh-Mai bật lên cao. Nàng cảm thấy trời long đất lở, khí huyết chạy nhộn nhạo trong người, tai kêu lên những tiếng vo vo như sáo diều.
Tự biết mình không phải đối thủ của Triệu, nàng đá gió một cái, tà tà đáp xuống trước thềm đền thờ. Triệu Huy thấy người đối chưởng với mình là một thiếu niên. Nhưng chưởng lực khá mạnh, cánh tay y cảm thấy ê ẩm. Nhất là trong chưởng đó bao hàm phong, lôi, thủy, hỏa, có sức sát thủ khủng khiếp. Lại thấy thiếu niên biết ứng phó, mượn sức vọt ra xa, để tự vệ.
Kinh nghiệm, Triệu-Huy biết đây là con nhà danh gia, được huấn luyện rất chu đáo. Trong chuyến đi này, Tống đế ban chỉ dụ cho Triệu Thành bằng mọi gía phải thu phục nhân tâm cùng kết thân với võ-lâm Lĩnh-nam. Vì vậy y tỏ vẻ khách khí:
- Triệu Huy phái Thiếu-lâm nhà Đại-tống, hân hạnh được biết danh tính thiếu hiệp. Thiếu hiệp mới bằng này tuổi, mà công lực dã tới mức không ngờ. Dường như thiếu hiệp thuộc phái Đông-a thì phải!
Thanh-Mai cố giữ giọng khàn khàn:
- Tại hạ là Trần Thông-Mai thuộc phái Đông-a, xin tham kiến Triệu đại hiệp.
Nàng tự xưng tên anh mình, để dấu tông tích. Nàng đảo ngược tên Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đi, chỉ vào hai người:
⬔Vị này là em con dì với tại hạ, họ Lý tên Linh-Mỹ. Vị này là Nùng Hòa-Bảo, nghiã đệ của tại hạ.
Ngô Tích tỏ vẻ hiểu biết tình hình võ lâm Lĩnh-nam:
- Trần công tử, thì ra công tử là trưởng nam của Côi-sơn đại hiệp đấy. Khi còn ở Trung-nguyên, tại hạ từng nghe đồn rằng chưởng môn phái Đông-a có bốn người con. Con trưởng là Trần Thông-Mai tuy tuổi hai mươi, mà võ công cái thế. Thứ là Trần Thanh-Mai bác học uyên thâm. Hai người con còn nhỏ là Trần Tự-Mai, Trần Thanh-Nguyên kiến thức siêu phàm. Hôm trước đây anh em tại hạ đã được diện kiến nhị tiểu thư, tam công tử cùng tứ tiểu thư. Hôm nay mới hân hạnh được gặp đại công tử.
Triệu Anh chỉ vào miệng hầm:
- Bọn tại hạ đang đêm theo giúp Đàm hiệu úy thi hành mật lệnh của ngài Đàm an-phủ-sứ. Không biết đã phạm tội gì với các vị. Mà các vị lại đem rơm hun đốt anh em tại hạ gần chết ngộp?
Bảo-Hòa quên mất rằng mình giả trai, không còn là quận chúa. Nàng đem chính nghiã ra chất vấn:
- Này Triệu tiền bối. Người đường đường là tiến-sĩ nhà Đại-tống, lại là cao thủ bậc nhất phái Thiếu-lâm. Tại hạ tuy ở xó rừng núi, mà cũng nghe danh Tung-sơn tam kiệt, được Tống đế phong cho làm lang-trung phụ trách Khu-mật-viện người lại được cử theo Bình-nam vương cùng sứ đoàn sang Chiêm-quốc. Hà cớ lại đi ăn trộm?
Triệu Huy là người mưu trí cực kỳ cao thâm. Y tự biết ba thiếu niên này phục ở đây giữa đêm trăng, chắc chắn đã biết rõ sứ mệnh của bọn y. Hơn nữa ba người đã chất rơm đốt bọn y thì ba người cũng biết bọn y võ công cao hơn. Như vậy trong trận đấu này, ba thiếu niên đã biết mình, biết người thì có chối cũng vô ích. Y chỉ Đàm An-Hòa:
- Nùng thiếu hiệp trách bọn tại hạ như vậy, có điều đúng, có điều sai. Nhân tại hạ qua đây, Đàm hiệu úy nhờ tại hạ giúp ý kiến trong công vụ, nên bọn tại hạ đi theo người. Sao lại bảo là trộm cắp?
Mỹ-Linh chỉ ba xác chết:
- Các người đã ra tay giết ba người này, tội không nhỏ đâu nhé.
Triệu Huy cười:
- Giết ba người này chính là Vệ-vương. Lý thiếu hiệp núp ở đây từ lâu, hẳn đã nghe Vệ vương gia tường thuật thân thế. Vương gia đây là dòng chính thống của vua Đinh, thì ngài xử tử một vài con dân là truyện riêng của Giao-chỉ, anh em tại hạ đâu dám xen vào?
Mỹ-Linh hỏi An-Hòa:
- Gã họ Đàm kia. Mi đường đường là quốc cữu. Chị mi hiện là qúi phi, đang được sủng ái trong cung. Cha mi làm tể thần. Anh mi được trọng dụng làm tới tuyên-vũ-sứ, giữ chức tổng trấn vùng này. Thế mà mi lại tư thông với ngoại quốc. Hôm trước mi nghe lệnh Triệu Huy bắt giam người ngay, vô phép với con gái lương gia. Hôm nay mi lại dẫn những người này đi ăn trộm. Mi có biết tội này, sẽ đưa đến diệt tộc không?
Khi gặp lại Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Đàm An-Hòa đã cảm thấy hơi quen quen. Trong nhất thời, y không đoán ra được tung tích nàng. Bây giờ nghe chất vấn, y mới tỉnh ngộ. Không nói, không rằng, y xuất thế ưng-trảo chụp Mỹ-Linh.
Hôm trước vì tuân lời Tịnh-Huyền, Mỹ-Linh không dám động thủ, An-Hòa mới vô phép được với nàng. Chứ hôm nay, nàng đã học được nhiều kinh nghiệm, nàng là đệ tử yêu của Huệ-Sinh, đệ nhất cao thủ đương thời, dễ gì y chạm vào người nàng được? Mỹ-Linh không tránh né, cũng không đỡ đòn. Nàng ra tay sau, mà lực đạo tới trước, tát vào mặt An-Hòa hai cái, y ngã lộn đi một vòng.
Tuy bị đau, nhưng An-Hòa vọt người dậy, vung chưởng tấn công Mỹ-Linh. Mỹ-Linh đá cho y một lưu vân cước. Y lại ngã lộn đi hai vòng. Biết không phải đối thủ của Mỹ-Linh. Y nói với Triệu Huy:
- Triệu đại nhân, con nha đầu này tên thực là Mỹ-Linh, thứ nữ của Khai-thiên vương Phật-Mã. Y thị được phong là công chúa Bình-dương.
Triệu Huy đã nhận ra Bảo-Hòa, Thanh-Mai, y cười:
- Thân quận chúa, Trần cô nương. Các vị giỏi thực, đã qua mặt được bọn tại hạ. Không hiểu bọn tại hạ có tội gì với các vị, mà các vị theo phá hoài?
Về võ công, kinh nghiệm thì Mỹ-Linh kém Bảo-Hòa với Thanh-Mai, chứ về luật pháp, văn học, nàng được thầy là một nhà Nho cực kỳ uyên thâm, tên Lý Đạo-Thành dạy dỗ rất kỹ. Nàng lên tiếng:
- Triệu an-phủ-sứ. Bất cứ ai nói câu đó thì được chứ người nói thì không được. Về văn, người đậu tiến-sĩ. Về võ người là cao thủ phái Thiếu-lâm lại đang giữ trọng trách trấn nhậm biên cương trọng thần, coi biên giới phía Nam nhà đại Tống. Người phải biết luật lệ chứ? Đừng nói ta là công-chúa, Bảo-Hòa là quận-chúa, mà bất cứ con dân Đại-Việt nào, thấy đạo tặc đều phải ngăn cản. Huống hồ, các người đường đường là sứ thần đại Tống, lại đi ăn trộm. Hôm trước bọn người với Quách Qùi ăn trộm ở đền thờ Tương-Liệt đại-vương. Địch Thanh trộm vàng ở Lạng-châu. Hôm nay các người đến đây ăn trộm ở đền thờ đanh nhân Trung-quốc. Ta phải bắt giải về triều Tống để trị tội.
Tiếng nói Mỹ-Linh trong mà ngọt ngào, nhưng lý luận đanh thép. Bọn Triệu Huy nhìn nhau chưa biết hành động ra sao. Để ba cô gái này đi, thì cơ mưu bị bại lộ. Hơn nữa trong chuyến đi, nhiệm vụ của bọn y có ba phần. Một là ăn trộm di thư thời Lĩnh-nam. Hai là kết nạp võ lâm Đại-việt, ba là gây bất hòa giữa võ lâm, dân chúng với triều đình nhà Lý, chuẩn bị đánh chiếm Đại-việt, lập lại quận huyện.
Bây giờ di thư ra manh mối. Y với Đinh Tòan đã khám phá ra ký hiệu ghi trên chiếc áo da của vua Đinh, tìm được nơi cất. Y biết nơi cất di thư có cơ quan, cạm bẫy nguy hiểm. Y bàn với An-Hòa, sai ba viên hiệu úy tìm trước. Nếu có nguy hiểm thì bọn chúng chết thay. Còn trường hợp tìm ra rồi, thì Đinh Toàn sẽ ra tay giết ba viên hiệu úy để bảo mật. Khi Toàn giết ba viên hiệu úy, đương nhiên An-Hòa lĩnh thêm tội trạng là theo nghịch thần nhà Đinh, giết quan quân. Như vậy An-Hòa suốt đời bị bọn y không chế.
Ngờ đâu vừa xuống hầm tối, thì bị chị em Thanh-Mai hun khói. Bọn chúng ngộp thở tưởng chết. Giữa lúc nguy nan, thì tìm ra được cửa khác, thông với đáy hồ sen trước ao, mà thoát nạn.
Bây giờ y phải hành động thế nào? Để ba cô gái này đi, thì quan quân kéo đến, di thư không đến tay. Đụng chạm đến Mỹ-Linh, y không sợ, vì khi sang đây, đương nhiên y đối lập với triều đình .Song đụng với Thanh-Mai, là đụng với phái Đông-a, người nhiều, võ công cực kỳ cao. Tống đế truyền bằng mọi gía phải mua chuộc, y không thể trái chỉ. Đụng đến Bảo-Hòa là đụng đến 207 khê động, ắt biên giới phía Nam Trung-quốc không yên? Vậy phải làm thế nào bây giờ?
Triệu Huy đưa mắt nhìn Triệu Anh, cả hai gật đầu, như đồng ý giết ba con nhỏ này đốt xác đi,thì ai mà biết được. Thanh-Mai nhìn sắc diện bọn Triệu Huy, biết nguy hiểm sắp tới, nàng nói với Bảo-Hòa:
- Sư phụ chị đang nhập thiền ngoài bờ hồ. Em ra mời người vào nói truyện với Triệu đại nhân.
Triệu Huy cười nhạt:
- Trần cô nương. Cô nương không qua mắt tại hạ được đâu. Nếu sư phụ cô nương ở đây, thì không bao giờ cô nương phải dùng rơm đốt anh em tại hạ. Cô nương ơi, giữa cô nương với anh em tại hạ không thù, không óan. Triệu vương gia của tại hạ lại sủng ái cô nương cùng cực. Song một là vì việc nước. Hai là vì tự bảo vệ mạng sống, anh em tại hạ phải vô phép với cô nương.
Mỹ-Linh hất hàm hỏi Triệu Anh:
- Các người định giết chúng ta ư? Ông nội ta sẽ băm vằm các người ra từng mảnh. Đừng nói ông nội ta, chỉ cần các người đụng đến sợi tóc của Thanh-Mai thôi, thì dù người có cánh bay lên trời cũng không thoát khỏi màng lưới phái Đông-a trả thù.
Đinh Toàn đang muốn thu phục nhân tâm để trở về làm vua, y kéo Triệu Anh vào một góc nói nhỏ:
- Triệu lang trung, cần có giải pháp nào tốt đẹp chứ tôi không thuận giải pháp giết ba tiểu cô nương này. Nước tôi có câu tục ngữ cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra. Nếu các vị giết chúng, mạng sống cá nhân các vị cũng như gia đình không tòan với phái Đông-a. Lại bọn họ Thân đang làm vua 207 khê động giáp giới Hoa, Việt ắt cử binh sang trả thù. Lý Công-Uẩn đời nào chịu khoanh tay khi các vị giết cháu yêu của lão? Các vị sang đây tìm di thư, chưa biết có hay không, mà đã gây chiến, tôi e Tống đế sẽ tru di tam tộc các vị. Các vị chỉ cần khống chế chúng, đợi lấy di thư xong, hay thả ra, tôi cho là giải pháp tốt nhất.
Triệu Anh gật đầu, nhận thấy lời Đinh Toàn đúng. Y nói với Thanh-Mai:
- Trần cô nương, bọn tại hạ xin cô nương dạy cho mấy chiêu.
Bảo-Hòa cười nhạt:
- Đánh nhau thì đánh nhau. Thân Bảo-Hòa này đâu sợ các người. Xin Triệu đại nhân cho thể lệ cuộc đấu.
Triệu Huy cười:
- Thế thì còn gì bằng. Tại hạ có ba huynh đệ, thêm Vệ vương là bốn. Bên quận chúa có ba người, chỉ cần các vị thắng được hai người trong bọn tại hạ là đủ, không biết quận-chúa, muốn đấu bằng phương thức nào?
Thanh-Mai hỏi Đinh Toàn:
- Đinh vương gia. Thời đức Tiên hoàng dựng nghiệp, ông nội tiểu nữ từng cầm gươm theo hầu, lập đại công. Khi thành đại nghiệp, Tiên-hòang phong cho tước công, người không nhận. Lại khi Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, ông nội tiểu nữ định khởi binh trả thù. Chỉ vì lúc đó giặc Tống sắp qua, người đành chịu nhịn. Hiện giờ, trong phái Đông-a không một ai làm quan với triều Lý. Chẳng lẽ vương gia lại đi đấu với bậc con cháu công thần nhà Đinh ư? Như vậy dù sau này chiếm lại được giang sơn, thì ai phục vương gia nữa đây?
Soi sang tấm thứ nhì, có khắc hình một đứa trẻ cỡi ngựa, tay cầm gậy, con ngựa phun ra những tia lửa dài. Dưới cũng khắc chữ cổ. Tấm thứ ba vẽ một cái xe, bắn ra nhiều mũi tên. Tấm thứ tư vẽ hình con trâu mập. Trên lưng trâu, một người cỡi trong tư thế đánh xuống đầu trâu. Tấm thứ năm vẽ một con sông, cạnh năm ngọn núi. Tấm thứ sáu, vẽ hình tám con vật: khỉ, ong, rắn, voi, chó, ưng, beo, cọp.
Triệu Huy muốn ngộp thở. Y soi tới tấm thứ bẩy có hình con rồng bay lượn. Tấm thứ tám vẽ hình con phượng. Y rút kiếm trao cho Triệu Anh:
- Đại ca hãy cầm thanh kiếm này, đề phòng. Nếu ba cô nương đây có dở chứng thì giết không tha.
Y cầm đuốc cùng Đinh Toàn đi vào đường hầm thứ nhất, cạnh tấm bia vẽ hình đứa trẻ chăn trâu. Đường hầm hẹp khoảng một người đi lọt. Hai bên có nhiều tấm bia. Trên bia khắc chi chít những chữ quái dị cùng đồ hình võ công. Tất cả có ba mươi sáu đồ hình khác nhau. Y quay lại các tấm bia phía sau cũng có ba mươi sáu đồ hình nữa. Y suy nghĩ:
⬔Đây là võ công gì mà có tới 72 chiêu.
Y hỏi Đinh Toàn:
- Vương gia. Vương gia có biết trong các kho võ công Lĩnh-nam, pho nào có 72 chiêu không?
- Có, đó là kiếm pháp Long-biên. Trong 72 chiêu biến hóa thành âm, dương, hóa ra 144 chiêu... rồi biến thành tới mấy trăm ngàn chiêu theo Bát-quái.
Triệu Huy lẳc đầu:
- Lạ một điều, nếu là kiếm pháp, thì sao đây lại khắc hình chưởng pháp?
Quách Quỳ theo sát chân sư thúc. Nó đọc qua biết trên bia chép Phục-ngưu thần chưởng. Phía trước chép ba mươi sáu chiêu dương. Phía sau chép ba mươi sáu chiêu âm.
Y lui trở ra, theo phía sau tấm bia khắc hình con rồng, thì thấy vẽ những chiêu thức kiếm thuật. Y chán nản lui trở lại, thuật cho Triệu Anh, Ngô Tích nghe. Tuy Anh bị trúng độc, song nhờ công lực mạnh, đầu óc cũng không đến nỗi mê man.
Hai người nhìn Đinh Toàn. Toàn cũng đang vò đầu, vò óc nghĩ không ra.
Đinh Toàn chợt chỉ vào một cái bia nhỏ, ngay cửa đường hầm đi xuống:
- Bia chữ Hán.
Huy, Tích cùng Đinh chạy lại. Một tấm bia nhỏ trên khắc chữ Hán, nét khắc rất thanh tao. Y lấy vạt áo lau bụi, đọc:
Ta vốn sinh, lớn lên trong ở Thục, trong gia đinh võ lâm. Thân phụ ta cùng sáu đồng môn kết thành Thiên-sơn thất hùng. Nhân thời thế lọan lạc, bẩy người rút gươm khởi nghĩa cưú dân, mưu lập nước Nghiêu-Thuấn. Nào ngờ trời không chiều người, sự nghiệp chỉ được vài chục năm rồi tan vỡ.
Quách Quỳ học sử Lĩnh-nam rất kỹ, y nói:
- Sư thúc, đúng rồi. Người khắc bia này họ Vương tên Sa-Giang, gốc đất Thục. Bà ta nổi tiếng hoa khôi thời Đông-Hán. Cha của bà tên Vương Nguyên,làm thừa tướng cho Ngỗi-Hiêu. Khi Thục bị Hán diệt, y còn kháng chiến mấy năm mới bị diệt.
Triệu-Huy đọc tiếp:
Nhân Thục liên kết với Lĩnh-nam, ta găp đấng quân tử Đào Nhị-Gia,kết thành phu phụ. Từ lúc gặp nhau, chúng ta như đôi chim liền cánh. Chàng sủng ái ta cùng cực, tình nghiã như nước, tưởng không bao giờ hết. Ta theo chàng chinh chiến, khi thì Trường-an, khi thì Động-đình, khi thì Nam-hải.
Niên hiệu vua Trưng thứ ba, vua Bà cùng triều đình bị Lê Đạo-Sinh phục binh, dùng muôn nghìn mũi tên sát hại. Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng vương phi là tể tướng Lĩnh-nam, muốn đánh một trận cho thỏa lòng rồi chết. Ngặt vì còn con nhỏ, ra đi không đành. Vương là sư huynh của Nhị-Gia. Vương ủy thác hai con là Tử-Khâm cùng Tường-Qui cho trượng phu với ta. Chúng ta vì thế không được tuẫn quốc với người.
Quách Quỳ giảng:
- Đào Nhị-Gia hồi còn bé có tên Sún-Rỗ, học trò Đào Thế-Kiệt. Nhị gia là một đại tướng khét tiếng với đội Thần-ưng.
Triệu Huy mừng quá, muốn đứng tim:
Ngày mười lăm tháng tám. Vương phi hộ tống vợ chồng chúng ta ra khỏi vòng vây Long-biên, dặn ta đem hai con vào Cửu-chân, chịu nhục, ẩn thân nuôi dạy dùm người. Vương còn trao bộ « Lĩnh-Nam vũ kinh » cùng bộ « Dụng binh yếu chỉ » cho trượng phu ta, vì sợ học thuật Lĩnh-nam mai một.
Nay Tử-Khâm, Tường-Qui đều thành người, văn tài lỗi lạc, võ công vô địch. Trong khi đó, tuổi chúng ta đã trên năm mươi. Ta bàn với trượng phu cần khắc tất cả bộ Lĩnh-nam võ-kinh với bộ Dụng-binh yếu-chỉ, rồi chôn một chỗ. Để khỏi làm mất đi biết bao tâm huyết của tiền nhân. Nhân tìm được bãi đất này, chúng ta khắc để lại. Ta tự biết, chôn đâu rồi cũng có thể bị đào lên. Chúng ta mới nghĩ được một kế: các tham quan Hán sang Lĩnh-nam cai trị. Muốn yên thân, họ luôn tự xưng sang giáo hóa man dân. Họ bắt thờ Nhâm Diên, Tích Quang, để dân chúng dễ qui phục họ. Vì vậy nơi thờ Nhâm, Tích không bao giờ người Hán dám động đến. Nhân đó chúng ta bỏ tiền xây đền thờ trên động đá này là ý nghĩa đó.
Đương thời ta được tôn làm « Cầm tiên, tiêu thần ». Sợ rằng sau khi chết đi, nghệ thuật không còn, ta cũng khắc bia để lại. Kẻ hậu thế có duyên thì tìm được mà học, dưới suối vàng, ta cũng đỡ ân hận.
Khắc ngày lành, tháng Giêng niên hiệu Lĩnh-nam thứ ba mươi.
Vương Sa-Giang.
Triệu Huy nói với Đinh Toàn:
- Vương gia, quả thực kho tàng học thuật Lĩnh-nam đây rồi. Nhưng tất cả lại chép bằng chữ Lĩnh-nam, đến vương gia cũng không biết, thì ai đọc được bây giờ?
Thình lình Ngô Tích à lên một tiếng:
- Ta hiểu rồi.
Triệu Huy hỏi:
- Hiểu cái gì?
- Hiểu nội dung mấy tấm bia này. Thời Lĩnh-nam, có bẩy phái võ và nhóm Tây-vu là tám. Đây là tám cái bia chép lại di thư tám phái. Bia khắc đứa trẻ cỡi ngựa kia chắc là chép võ công phái Sài-Sơn. Vì tổ sư phái này là Phù-Đổng thiên-vương. Bia khắc xe chở máy bắn tên kia chắc là chép võ công phái Hoa-Lư. Còn mấy bia kia, sư đệ thử đoán xem thuộc phái nào.
Quách Quỳ biết nếu mình chối tuột không biết chữ Khoa-đẩu, e sư phụ nghi ngờ. Y làm bộ đọc được vài chữ:
- Sư phụ. Tấm bia khắc cái búa, chép võ công phái Cửu-chân.
Y làm bộ nghẹo đầu, nghẹo cổ một lúc rồi nói:
- Bia có hình đứa trẻ cỡi trâu chép võ công phái Tản-viên.
Triệu Huy đoán già:
- Tấm bia khắc hình con rồng chắc là chép võ công phái Long-biên. Còn bia khắc hình tám con vật kia, tượng trưng cho tám đội binh thú rừng thời Lĩnh-nam của Tây-vu, hẳn là chép võ công Tây-vu.
Ngô Tích chỉ vào hai tấm bia còn lại:
- Tấm bia khắc con phụng, chắc ghi võ công phái Quế-lâm. Tấm còn lại khắc hình năm ngọn núi hẳn là chép võ công phái Khúc-giang.
Hơn ngàn năm trước, khi vua Trưng ra lệnh chép học thuật Lĩnh-nam để lại, thì Khúc-giang ngũ hùng đã qua đời, vì vậy học thuật phái Khúc-giang thất truyền. Tấm bia khắc năm ngọn núi chính là nơi chép bộ Lĩnh-nam dụng binh yếu chỉ. Còn bia khắc con phụng, chép võ công phái Thiên-sơn, cùng nghệ thuật đàn, tiêu của Sa-Giang. Ngô Tích tuy thông minh, mà đóan cũng không ra.
Lúc ở trên sân đền, Bảo-Hòa viết mấy chữ Khoa-đẩu, bị Quách Quỳ khám phá ra. Từ khi xuống hầm thấy những tấm bia khắc chữ Khoa-đẩu, Quách Quỳ giả bộ không hiểu hết... nàng biết trước sau gì bọn Triệu Huy cũng bắt nàng dịch sang Hán-văn cho chúng. Vì vậy nàng giả bộ trúng độc, nằm thiêm thiếp ngủ. Tuy nhiên vẫn lắng tai nghe ngóng động tĩnh. Quả nhiên Triệu Huy trở lại chỗ ba chị em nàng ngồi, gọi:
- Này quận chúa Bảo-Hòa. Chữ Khoa-đẩu là chữ cổ xưa của Lĩnh-nam. Cô nương biết viết, tất biết đọc. Phiền cô nương dịch sang Hán-văn dùm tại hạ. Tại hạ cam đoan sẽ đem cô nương trở về Lạng-châu an toàn.
Thanh-Mai đỡ lời Bảo-Hòa:
- Quận chúa bị các vị phun phấn độc, hiện đang mê man. Xin các vị chữa cho quận chúa trước, rồi hãy bàn đến dịch võ kinh. Tôi nói cho các vị biết, chữ Khoa-đẩu hiện chỉ còn hai người đủ khả năng đọc được. Một là sư phụ của Bảo-Hòa. Hai là Bảo-Hòa. Sư phụ Bảo-Hòa dường như qui tiên rồi thì phải. Các vị mau chữa cho Bảo-Hòa ngay mới kịp.