Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 21 :

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Hồng Sơn Đại Phu - ---nh Nam Vũ Kinh



Đình làng Vạn-thảo tọa lạc trên khu đất rộng rãi, xung quanh có tường gạch. Muốn vào đình phải qua cái cổng bằng đá xanh. Sân đình lát bằng những phiến đá lớn. Giữa sân có hai tấm bia. Quách Thịnh chỉ bia:



- Thưa quận chúa, hai tấm bia kia để khắc tên tuổi những người có chức, tước, văn học trong làng. Một tấm khắc tên quan văn, một tấm khắc tên quan võ.



Vượt qua sân, vào đình. Đình là một ngôi nhà lớn, dài ước khỏang ba mươi bước, tường gạch, mái ngói. Giữa đình có bệ. Trên bệ thờ thần thành hoàng. Khi Bảo-Hòa bước vào đình, thì mõ làng đã trải chiếu hoa từ bao giờ. Sát chân bệ thờ là một chiếu cạp điều. Thường chiếu này dành cho tiên chỉ, rồi tới bốn chiếu nhì. Một chiếu dành cho lý trưởng, phó lý, trương-tuần lại-dịch, thủ qũi. Một chiếu dành cho năm ông giáp trưởng. Ba chiếu còn lại dành cho các hào mục, các vị bô lão tuổi từ sáu mươi trở đi. Sau đó hơn ba mươi chiếu dành cho tất cả mọi người dân trong làng, tuổi từ mười sáu trở lên.



Về triều Lý, mỗi xã như một nước nhỏ tự trị. Hàng tháng xã họp một lần để bàn việc như một tiểu quốc hội ngày nay. Hội đồng hàng xã làm lệ làng. Thường lệ làng phải tuân theo luật nước. Nhưng khi luật nước quá khác biệt với đời sống dân chúng, lệ làng vẫn cứ được thi hành. Câu tục ngữ phép vua thua lệ làng phát xuất từ đấy.



Quách Thịnh mời chị em Thanh-Mai ngồi vào chiếu nhất của mình, rồi đứng dậy chắp tay hướng vào cử tọa:



- Trình quan viên hàng xã. Sở dĩ tôi cho đánh trống triệu tập các quan viên bất thường. Vì làng ta gặp đại phúc, được công-chúa điện-hạ, cùng tiên cô giá lâm.



Chàng kể sơ lựơc về 207 khê động Bắc biên, cùng gốc tích họ Thân, cho tới trận đánh Như-hồng mà chàng tham dự. Khi chàng kể đến việc Bảo-Hòa được cọp nuôi dưỡng, dân chúng súyt xoa, hướng nàng lạy liên tiếp. Quách Thịnh thuật đến việc bọn Triệu Anh sang Đại-Việt ăn trộm, rồi bị Bảo-Hòa sai thú vật bắt. Cuối cùng chàng chỉ vào Mỹ-linh giới thiệu là công chúa. Còn Thanh-Mai chàng giới thiệu giản dị là chị em kết nghĩa của Mỹ-linh. Dân chúng thấy Mỹ-Linh, Thanh-Mai mảnh khảnh, mặt đẹp huyền ảo. Họ nghĩ thầm:



- Tiên với công chúa có khác. Đẹp thực.



Mỹ-Linh hỏi:



- Khoan rồi hãy họp. Xin Quách hầu cho chị em chúng tôi lễ thần thành hoàng đã. Thần thành hoàng ở đây đã có sắc phong chưa?



Quách Thịnh đứng dậy đốt hương trao cho chị em Thanh-Mai:



- Thưa điện-hạ thần thành hoàng làng chúng tôi họ Trần húy Đại-Sinh. Về thời vua Trưng được phong làm tiên ông. Ngài rất giỏi nghề thuốc. Đương thời ngài có đến đây ẩn cư ba năm, trồng cây thuốc, dạy dân y đạo. Từ đó đến nay dân làng không dám sao lãng, tiếp tục nghề xưa. Vì vậy làng có tên Vạn-thảo. Làng tôi là nơi sản xất nhiều thầy thuốc danh tiếng trong nước.



Chị em Mỹ-Linh lễ thần xong, nàng hỏi han chi tiết về đời sống dân chúng rất cặn kẽ. Lý trưởng hướng vào Bảo-Hòa:



- Khải tấu tiên cô. Lệ làng có khoản nói rằng: khi một vị thần, một vị có huân công với xã tắc viếng làng, được quyền thêm hay sửa đổi lệ. Không biết tiên cô với công chúa có muốn thay đổi khoản nào trong hương-ước không?



Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Bảo-Hòa. Bảo-Hòa nói sẽ vào tai nàng mấy câu. Mỹ-Linh mừng lắm, gật đầu liên tiếp. Bảo-Hòa đứng dậy:



- Làng này sở dĩ giầu có, nảy sinh nhiều người tài, một là vì dân làng quyết tâm, chịu khó làm việc. Hai là nhờ địa linh. Hôm nay cô đến đây, thấy đàn bà con gái xinh đẹp, nết na, tài như trựơng phu. Cô xin đề nghị đổi hương ước như thế này: đàn bà, con gái được hưởng mọi quyền như đàn ông con trai. Ngược lại họ cũng phải luyện tập võ nghệ, giữ làng như hoàng nam.



Trong đình chỉ có đàn ông, con trai ngồi họp. Đàn bà con gái phải đứng ngòai. Tuy đứng ngòai, nhưng họ nghe rất rõ lời Bảo-Hòa nói. Họ vỗ tay đồng lọat. Đợi tiếng vỗ tay dứt, Mỹ-Linh hỏi:



- Này Quách hầu, này cụ lý, mỗi vị có mấy vợ?



Quách Thịnh chắp tay:



- Tiểu nhân đã từng ở Lạng-châu về, lẽ nào giám quên chỉ dụ của vua Bà. Tiểu nhân chỉ có một vợ thôi. Cụ lý cũng vậy.



Mỹ-Linh cười:



- Phần tôi. Tôi xin đổi hương ước như thế này: trong làng này trai chỉ được lấy một vợ mà thôi. Nhược bằng sau khi lấy nhau ba năm, mà vợ không sinh con nối dòng, thì phải xin phép tiên-chỉ, lý trưởng và trưởng-tộc cho được quyền lấy vợ lẽ. Tuy nhiên không được bỏ vợ cả.



Đúng ra Thanh-Mai không có quyền thay đổi hương ước. Nhưng Quách Thịnh thấy nàng là em kết nghĩa của Khai-quốc vương, thì khác chi công chúa? Vì vậy chàng cũng mời Thanh-Mai phát biểu ý kiến. Thanh-Mai nói::



- Thời Lĩnh-nam, vua Trưng là nữ, tể tướng Nguyễn Phương-Dung, tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa, cùng không biết bao nhiêu nữ tướng... Thế thì trong xã bầu tiên chỉ, lý trưởng, phó-lý. Các bà, các cô cũng có quyền ứng cử.. Sau này xã Vạn-thảo có nữ lý-trưởng, nữ tiên chỉ thì thực là tuyệt. Nào xin các vị cho ý kiến!



Lại dịch đứng dậy chắp tay vái chị em Thanh-Mai, rồi thưa:



- Tấu lạy tiên-cô cùng nhị vị công chúa. Tiên-cô cùng công chúa dạy, chúng con xin tuân. Có điều luật của bản triều định rõ: khi đàn bà phạm vào một trong thất xuất tức tội nặng, cho quyền chồng bỏ. Nay đổi lại chỉ cho lấy vợ lẽ, mà không cho bỏ, e trái luật của đức hoàng-đế.



Bảo-Hòa hỏi Mỹ-Linh:



- Thất xuất là gì vậy?



Mỹ-Linh nói lớn như muốn cho dân chúng cùng nghe:



- Luật của bản triều qui định rằng khi người đàn bà phạm tội thất xuất thì chồng có quyền bỏ. Thất xuất là:



1.Vô tử tức là không con.



2.Dâm dật, là ngoại tình.



3.Bất sự cậu cô, là thiếu bổn phận phụng dưỡng bố mẹ chồng.



4.Khẩu thiệt, tức lắm điều, nhiều lời.



5.Đạo thiết, tức trộm cắp.



6.Đố kỵ, là ghen tuông.



7.Ác tật, bị phong cùi.



Bảo-Hòa suy nghĩ một lúc, rồi đáp:



- Chúng ta có câu phép vua, thua lệ làng. Đây là lệ làng mà. Không con chẳng qua do cơ thể bẩm sinh không được bình thường, hoặc bệnh họan, chứ đâu phải là tội? Phàm người đàn bà phạm tội khác trong thất xuất thì chồng được bỏ. Còn không con, thì chồng không được bỏ.



Cuộc hội họp đến chiều mới ngừng. Làng làm cỗ đãi khách. Trong khi cả làng đang ăn cỗ, thì có tiếng trống từ cổng vọng về, rồi tiếng tù và thổi. Lý trưởng đứng dậy, gọi Lê Phụng-Hiểu :



- Chú trương tuần theo tôi ra cổng, xem có truyện gì?



Vừa lúc đó, một hoàng nam đến trước Mỹ-Linh hành lễ:



- Khải tấu công chúa, có một đại-tướng dẫn hơn nghìn quân kị đến trước cổng, xin vào yết kiến công chúa.



Mỹ-Linh truyền lệnh:



- Quân đóng ở ngoài làng. Còn tướng cho vào.



Hoàng nam ra được một lát, rồi trở lại với Ngô An-Ngữ, Tạ Diệu-Chi. Hai đứa trẻ Thường-Kiệt, Thường-Hiến cũng theo vào. Ngô An-Ngữ hành lễ với Mỹ-Linh:



- Tiểu-tướng được lệnh bài, vội đem quân đến đón công-chúa. Công chúa vắng mặt hơn tháng qua, làm tiết-độ-sứ cùng anh em tiểu nhân tìm khắp nơi.



Chàng nhìn Thanh-Mai:



- Ta tìm không thấy sư muội, vội sai người về Thiên-trường báo cho sư phụ biết. Chắc sư phụ cũng sai người đi tìm.



Chàng nói với Bảo-Hòa:



- Chỉ riêng đại-sư Huệ-Sinh, cùng thế tử Thân Thiệu-Thái vẫn ở trên chùa Sơn-tĩnh. Đại-sư nói Công chúa, quận chúa với sư muội tuy bị nạn, song qua ba bẩy hai mươi mốt ngày thì hết. Nay quả nhiên đúng như vậy.



Đôi chim ưng bay lượn trên trời kêu réo như có truyện gì khẩn cấp. Bảo-Hòa ra sân gọi chúng xuống. Nàng lấy thư dưới chân chúng ra coi, rồi xé nhỏ bỏ vào vũng nước. Nàng cầm bút viết đầy một trang giấy, gấp lại bỏ vào ống đựng thư dưới chân chim, rồi hú lên một tiếng, chúng bay bổng lên trời, biến vào đám mây mù.



Quách Thịnh truyền dân làng giải tán, chỉ còn lại chức sắc. Mỹ-Linh tường thuật sơ lược mọi biến chuyển cho Ngô An-Ngữ nghe, rồi nàng truyền lệnh:



- Tướng quân hợp cùng dân trong làng bắt cho được Đinh Toàn cùng Quách Quỳ. Tôi đưa Bảo-Hòa đến Vạn-thảo sơn trang chữa bệnh. Còn ba tên Tống này, tướng quân giải thẳng về kinh, để triều đình định đoạt.



Thanh-Mai nghe Mỹ-Linh truyền lệnh, phán xử đâu ra đấy, nàng mừng thầm trong lòng:



- Mới có mấy tháng qua mà Mỹ-Linh như thay đổi thành một người khác. Hồi mình gặp nàng, cái gì cũng hỏi, cái gì cũng ngơ ngác. Bây giờ thì phát lệnh, hành sự không khác gì một quân sư. Cứ đà này, thì chỉ vài năm nàng có kém gì thân mẫu Bảo-Hòa?



Sự thực thì Mỹ-Linh được ông nội là vua Lý Thái-tổ giao cho Nho thần Lý Đạo-Thành dạy dỗ. Đạo-Thành là một nhà Nho chân chính, ông muốn tạo nàng thành một người phụ nữ khuôn mẫu của Nho gia, một người vợ hiền thục, nết na, hết lòng hiếu với cha mẹ, thuận với chồng. Những gương phụ nữ trong sách vở Nho-gia như vợ vua Văn-vương, như thân mẫu Khổng-tử được coi là khuôn vàng thước ngọc. Phu xướng phụ tùy, chứ trong nhà, vợ không quyết định việc gì cả. Vì vậy nàng chẳng biết gì về xã hội Đại-Việt. Khi gặp biến cố xẩy ra, nàng không có phản ứng.



Từ hôm xẩy ra vụ thân mẫu qua đời, đưa đến nàng xin đi Trường-yên ở với chú là Khai-quốc vương, cuộc đời nàng hòan tòan đổi mới. Khai-quốc vương muốn cháu mình phải như những anh thư thời Lĩnh-nam. Ngày ngày vương đem sử thời Lĩnh-nam dạy nàng. Rồi đi đâu vương cũng mang nàng theo. Vốn có căn bản học thức sâu sa, nay được đi vào thực tế, nàng tiến rất nhanh. Lúc gặp Thanh-Mai, nàng mới thấy Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An dạy con thực tế hơn thầy nàng nhiều. Nếu nói về Tứ-thư, Ngũ-kinh thì nàng bỏ xa Thanh-Mai. Nhưng nói về lịch sử anh hùng dân tộc, cùng ứng phó ngoài đời nàng chỉ là đứa trẻ ngờ ngệch.



Trong chuyến đi nàng gặp bà cô là sư thái Tịnh-Huyền, với vóc dáng một vị ni sư đắc đạo, võ công tuyệt đỉnh, kinh lịch có thừa. Lại được gặp cô đang làm vua bà vùng Bắc-biên, rồi Bảo-Hòa. Hai người quyết đoán sự kiện, đối phó với biến cố thực tinh tế, mau chóng. Nàng đã thay đổi hẳn quan niệm của Nho gia.



Hàn Diệu-Chi lắc đầu:



- Công chúa đi như vậy, chúng thần không yên tâm. Thần xin dẫn hai cháu Tuấn, Hiến theo hầu công chúa một thể.



Biết không đừng được, Mỹ-Linh nhìn Bảo-Hòa như phân trần điều gì. Nhưng Bảo-Hòa trúng độc đã hơn tháng, người mệt nhừ, nàng đang thiêm thiếp ngủ. Nàng than thầm:



- Đi đâu mà đem quân lính theo thì còn thú vị gì nữa. Ta phải dùng quyền mới được.



Mỹ-Linh nghiêm mặt nói với Ngô An-Ngữ:




Thình lình đứa trẻ ho mấy tiếng, rồi lên cơn suyễn, khò khè trong cổ. Ông mỉm cười:



- Không hề gì. Ta trị suyễn bằng châm cứu.



Ông cầm kin châm vào huyệt Đại-trữ, Phong-môn, Phế-du, Khuyết-âm-du dùng tay xoay kim. Trong cổ thằng bé hết khò khè liền. Ông lật thằng bé dậy, châm vào huyệt Thiên-đột, Hiệp-cốc, rồi xoay kim. Chỉ trong vòng hai mươi tiếng đập tim, thằng bé thở như thường.



Đến đó tiểu đồng mang thuốc ra cho thằng bé uống. Ông dặn:



- Ông bà dẫn cháu về làng Vạn-thảo nghỉ ngơi. Mai lại đem cháu tới, tôi trị tiếp.



Vợ chồng Trịnh Thư chắp tay:



- Còn tiền tạ thầy thế nào, mong tiên sinh dậy cho.



- Không vội, hãy lo cứu đứa bé này đã. Tạ với biếu làm gì vội. Đợi khỏi bệnh rồi ta mới nhận tạ.



Vợ chồng Trịnh Thư dắt con, tạ từ lão rồi ra cửa. Bây giờ ông mới hỏi Lê Văn:



- Còn ai không?



- Thưa bố còn một người bệnh nữa. Để con mời vào.



Lê Văn dẫn thiếu phụ đi với cô gái có đôi mắt đẹp vào. Đại phu hỏi thiếu phụ:



- Thưa bà. Bà cần ta điều trị cho ai?



Thiếu phụ cùng người đàn ông đang nằm bất động thấy vị đại phu rất quen mặt, mà không nhận ra là ai. Bà chỉ người đàn ông đang nằm bất động, nói:



- Thưa tiên-sinh, cháu không có bệnh gì. Người bị bệnh là bố cháu. Bố cháu họ Lâm tên Tín làm nghề đánh cá.



- Bà có phải là tộc thuộc họ Lý họăc người Tầu không?



- Thưa không. Có điều...



- Không có điều gì cả. Bà không ở trong hai điều đó là được rồi.



Người đàn bà lạy thụp xuống đất:



- Thưa tiên sinh, mong tiên sinh cứu chồng tôi. Nguyên cách đây mười năm, một đêm bị lên cơn sốt mê mệt. Hôm sau cổ tay phải sưng lớn. Thầy lang cho uống thuốc trấn thống, bẩy ngày sau thì khỏi. Thế rồi sau đó khi thì nửa tháng, khi thì một tháng bệnh tái phát. Dần dần hai đầu gối sưng lớn, xương méo đi. Hiện nay cổ, hai cùi chỏ, cườm tay, đầu gối sưng, xương méo hết. Chân tay phù thủng, đi, đứng không được.



Ông bắt mạch, xem lưỡi bệnh nhân, rồi nói:



- Bệnh của ông không có gì đáng ngại cả. Ông ta bị phong thấp lâu ngày, trị không khỏi, rồi nó chạy vào xương. Y học cổ gọi là tý chứng. Bà đi một mình với ông, hay còn có ai đi theo?



Thiếu phụ chỉ ra ngoài:



- Tôi còn cháu gái đi theo. Vì không có lệnh của tiên sinh, cháu không dám vào.



Bà gọi vọng ra ngòai:



- Huệ-Phương. Đại phu truyền con vào.



Cô gái có đôi mắt đẹp bước vào. Cô trông thấy Hồng-Sơn đại phu thì đứng dừng lại, bật lên tiếng kêu:



- Là... là... tiên sinh đấy sao?



Hồng-Sơn đại phu quên mất xung quanh ông còn nhiều học trò, bệnh nhân. Ông ngỡ ngàng:



- Huệ-Phương. Huệ-Phương. Ta tưởng kiếp này không gặp lại cô nương nữa.



Huệ-Phương cũng không tự chủ được, nàng ngã vào lòng ông. Đám đệ tử cùng con cháu ông vội giải tán. Trong phòng chỉ còn lại bố mẹ Huệ-Phương.



Hai người ôm nhau một lúc, rồi ông buông nàng ra. Nước mắt như mưa, nàng nói:



- Em đi tìm anh khắp đất nước Đại-Việt, sang cả Trung-quốc hai năm qua mà không gặp. Nào ngờ... nào ngờ ông trời có mắt.



Hình ảnh hai năm cũ trở về. Bấy giờ Huệ-Phương là cô gái 17 tuổi, nổi tiếng văn hay chữ tốt, thi thư đều thông. Nàng lại là đệ tử của phái Sài-Sơn, nên từ may mặc đến bếp núc đều hay. Nhan sắc nàng có một không hai. Không biết bao nhiêu người đến đánh tiếng hỏi, mà bố mẹ nàng không nhận lời.



Vào một ngày mùa đông, mưa phùn gió lạnh. Bố nàng bị đau nặng. Nàng phải đội mưa đi tìm thầy lang. Không ngờ tìm hết thầy này đến thầy khác, không thầy nào nhận lời. Quá mệt mỏi, nàng bị xỉu trên đường đi.



Giữa lúc đó, một trung niên nam tử cỡi ngựa đi qua. Ông thấy một thiếu nữ nằm bên đường, vội nhảy xuống cứu. Nhưng ông là đàn ông, nàng là gái, làm sao bây giờ? Ông phải tùng quyền ôm nàng lên ngựa, rồi dùng ngón tay chỏ điếm huyệt Nhân-trung cho nàng. Nàng từ từ mở mắt ra, nhưng người run lên vì lạnh. Ông đành ôm chặt nàng vào lòng, rồi phi ngựa đi tìm quán trọ. Vào quán, ông nhờ đốt lò sưởi cho nàng sưởi, tuy nhiên tay vẫn để vào huyệt Đản-trung của nàng mà truyền chân khí cứu cấp. Huyệt Đản-trung nằm trên ngực, giao điểm của trung tuyến ngực với đường nối hai đỉnh vú. Sáng hôm sau nàng tỉnh hẳn. Ông đưa nàng về nhà, rồi từ biệt lên đường. Trung niên nam tử đó là Hồng-Sơn đại-phu.



Sau cuộc cấp cứu đó, tình cảm nảy sinh. Ông tương tư Huệ-Phương. Ngược lại Huệ-Phương cũng tương tư ông. Mấy tháng sau, không chịu được thương nhớ, ông trở lại tìm Huệ-Phương, thì bố mẹ cho biết tại triều có chiếu chỉ thiên tử tìm một trăm con gái đẹp tiến cung. Huệ-Phương có tên trong danh sách. Trong một trăm cô gái, Huệ-Phương được một hoàng tử lọt mắt xanh, tuyển làm phi tần. Trước khi lên đường, nàng khóc lóc thảm thiết, thú thực mối tình với bố mẹ. Nàng lấy bộ quần áo, cùng chiếc khăn mà nàng mang hôm gặp Hồng-Sơn đưa gửi bố mẹ, nói rằng thế nào ông cũng trở lại. Vậy xin trao khăn, quần áo cho ông. Hẹn kiếp sau tái ngộ.



Ông nhận cái áo cánh mầu nâu, cái quần lụa đen và cái khăn hồng quàng cổ trở về sơn trang. Cứ đêm đêm. Ông đem áo, quần, khăn của nàng ra hít lấy hơi, tìm lại hương hoa ngày cũ. Nhiều khi ông muốn mạo hiểm vào cung, tìm nàng, giải thoát mang về đây, nhưng rồi lại chần chờ. Hôm nay, sau mấy năm thương nhớ, nàng lại hiện đến.



Huệ-Phương ngồi ngay ngắn, sửa lại y phục, rồi hỏi đại-phu:



- Anh ơi! Bệnh này do đâu mà có?



- Bệnh này thuộc vào loại hỗn hợp, một nửa do ngoại tà ở ngoài xâm nhập. Một nửa do cơ thể suy nhược sinh ra. Đầu tiên do huyết hư, tỳ dương hư, thận dương hư, rồi phong, thấp, hàn xâm nhập mà thành.



Huệ-Phương ngơ ngác không hiểu. Khi ngơ ngác, đôi mắt nàng đẹp lạ lùng. Hồng-sơn đại-phu giảng:



- Cơ thể con người cũng như vũ trụ, phân làm âm, dương. Khí là dương, huyết là âm. Ngũ tạng là tâm, can, tỳ, phế, thận là âm. Lục phủ đại-trường, tiểu trường, tam-tiêu, bàng-quang, vị, đởm là dương. Nhưng trời đất sinh ra trong âm có dương, trong dương có âm. Vì vậy thận cũng phân ra thận âm, thận dương. Tâm phân ra tâm âm, tâm dương... Cơ thể con người cần điều hòa âm dương. Nếu âm dương bất điệu sinh ra bệnh. Mỗi tạng, mỗi phủ đều có khí âm dương chống bệnh. Dương chống âm, âm chống dương.



Huệ-Phương bật lên tiếng « a »:



- Em hiểu rồi. Để em nói xem có đúng không nghe. Cứ như anh nói, cơ thể của bố em bị huyết hư. Huyết là âm. Khi âm huyết không đủ thì phong tà xâm nhập. Như vậy phong là dương tà.



Đại-phu giật mình:



- Em thông minh thực, chỉ thoáng một cái đã đoán ra. Cơ thể thân phụ em bị huyết hư, nên phong tà nhập. Thận dương hư bị hàn nhập. Bởi thận dương chủ chống với ngoại hàn. Khi thận dương hư, thì hàn tà nhập. Cuối cùng tỳ chủ vận hóa thủy thấp. Khi tỳ dương hư, thì thủy thấp nhập cơ thể. Kết lại vì huyết, thận, tỳ hư, nên phong, hàn, thấp nhập cơ thể.



Mỹ-Linh đang luyện kiếm ngoài sân, lời đối đáp của đại phu cùng Huệ-Phương lọt vào tai nàng. Nàng nhớ lại, thầy dạy văn của nàng là Lý Đạo-Thành đã giảng Kinh-dịch cho nàng rất tường tận. Thái-cực sinh Lữơng nghi là âm dương. Lưỡng nghi sinh Tứ-tượng. Tức là trong âm cũng sinh ra âm dương. Trong dương cũng sinh âm dương nữa là Bát-quái. Trong 72 thức Long-biên kiếm pháp, mỗi thức biến ra 36 chiêu thành 2592 chiêu, nàng đã hiểu, cho nên khi biến từ 72 sang 2592 nàng thắng Lê-Văn. Bây giờ 2592 chiêu nàng biến ra âm, dương thành 5184 chiêu. Nhưng một chiêu đâm ra, thì thế nào là âm, thế nào là dương?



Trong khi đó, đại-phu đang giảng cho Huệ-Phương:



- Trong cơ thể con người thì trên là dương, dưới là âm. Phải là dương, trái là âm. Lưng là dương, bụng là âm. Cơ thể sao phải thăng bằng giữa khí và huyết, giữa phải và trái, giữa trên và dưới, giữa trước và sau. Như vậy thì trong người khỏe mạnh. Em đeo kiếm thì hẳn biết võ công. Khi xử dụng võ công em cũng phải phân ra công là đương, thủ là âm. Thở ra là âm, hít vào là dương. Như vậy sẽ không bị mệt mỏi.



Huệ-Phương ngơ ngác:



- Xin anh nói rõ hơn rõ hơn.



Hồng-sơn đại-phu đối với Huệ-Phương cực kỳ nhu nhã. Ông cầm ống tiêu tà tà đưa ra một chiêu, rồi từ từ chuyển sang phải. Từ phải chuyển lên trên, rồi cười:



- Như chiêu vừa rồi, anh đâm về trước. Từ trước anh có thể biến sang phải là dương hoặc sang trái là âm. Nhưng anh chuyển sang phải. Tại vị trí phải anh chuyển lên trên là dương, xuống dưới là âm. Mà này em ơi. Khi anh chuyển như vậy, em đâu có biết rằng anh vận sức hay không? Nếu vận sức là dương, không vận là âm. Trong khi ra chiêu, vận sức hay không chỉ mình mình biết. Khi vận sức là dương, là thực chiêu. Khi không vận sức là âm, là hư chiêu.



Hôm ở dưới hầm đá, Mỹ-Linh thấy kiếm quyết thì học, chứ thực sự nàng không hiểu. Bây giờ nghe quái nhân kể, nàng mới bừng tỉnh ngộ:



- Thì ra thế. Từ 72 thức. Mỗi thức có 36 chiêu thành 2592, cộng âm dương thành 5184. Nếu biến hóa tam hư thất thực thì có ba mươi sáu ngàn, ba trăm lẻ chín chiêu thực, và mười lăm ngàn năm trăm năm mươi hai chiêu hư. Tổng cộng 51.851 chiêu. Trong những chiêu đó, có 72 thức mối nối, nối liền các chiêu với nhau.



Nghĩ vậy tay nàng múa kiếm như mây trôi, như nước chảy, liên miên bất tuyệt. Múa một lúc, nàng ngừng lại, vì trời đã tối.



Lê Văn ra sân nói:



- Công chúa, mời công chúa vào xơi cơm. Tôi nói nhỏ cho công chúa biết, bố tôi là người rất tốt. Tuy vậy đôi khi cố chấp. Công chúa yên tâm. Tôi có cách khuyên bố tôi. Công chúa đừng buồn.



Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Lê Phụng-Hiểu được đưa vào căn nhà bằng tre, trang trí toàn bằng tre. Lê Văn chỉ bàn:



- Bố tôi giao cho tôi tiếp các vị. Mời các vị dùng chút ít thổ sản Vạn-thảo sơn trang.



Mỹ-Linh nhìn lên bàn: có hai món ăn chính, mà nàng chưa từng biết.



Lê Văn tủm tỉm cười:



- Chắc công chúa chưa từng ăn qua các món này phải không?