Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 20 :

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Tiên Cô Giáng Trần - ---nh Nam Vũ Kinh



Xe đi vào giữa xã. Có tiếng ào ào từ xa đưa đến. Đinh Toàn lắng tai nghe:



- Hình như gần đây có chợ. Chợ đang họp, nên có tiếng vọng lại. Này cháu, phiên chợ làng này họp vào những ngày nào?



- Làng chúng tôi thuộc tổng Hồng-sơn. Tổng có ba xã. Xã nào cũng có chợ. Hội đồng quan viên ba xã họp nhau, đưa ra hương ước rằng: Xã Vạn-thảo phiên ngày một, ngày bẩy. Xã Vạn-thú họp ngày năm, ngày chín. Xã Vạn-hoa họp ngày ba ngày tám. Ngoài phiên ra, hàng ngày dân trong xã cũng họp chợ mua bán lẻ tẻ, gọi là chợ hôm, bởi họp từ sau giờ ngọ.



Đinh Toàn ngậm ngùi trong lòng. Hồi y bị Lê-Hoàn cướp ngôi, tuổi còn nhỏ, y không có ý thức gì. Y thích ăn bún riêu. Mỗi lần như vậy y lại gọi người tỳ nữ tên Lê Thúy dẫn đi chợ phiên ngoài thành Hoa-lư. Từ sau trận Cẩm-thủy, y không biết tin tức Lê Thúy, cũng chẳng có dịp đi chợ phiên. Y đề nghị:



- Cháu Hiểu này. Cháu có thể dẫn bọn ta xem chợ không?



Hiểu nhanh nhẹn:



- Thưa bác được, kính mời bác cùng các vị vào chợ mua sắm.



Chợ Vạn-thảo nằm bên bờ sông. Sông không lớn, nhưng thuyền, bè từ các nơi đổ về lũ lượt đậu trên bến. Triệu Huy có nhiều ý thức nhất về quân-sự. Y ngây người ra nhìn những người dân quê Việt chèo thuyền, neo thuyền, đi đứng trên những con thuyền nhỏ tròng trành như xiếc leo dây. Y tấm tắc khen ngợi trong lòng:



- Hơn nghìn năm nay, trong võ lâm truyền tụng rằng người Việt giỏi thủy tính nhất thiên hạ quả không sai. Thời Đông-hán thua Lĩnh-nam bẩy trận. Trong đó hết sáu trận là thủy chiến. Cứ như những người nông dân này, khi nhập ngũ, không cần huấn luyện, họ cũng là chiến sĩ thủy quân ưu tú nhất. Hoằng Tháo bị bắt trên sông Bạch-đằng. Đến bản triều bọn Lưu Trừng cũng bị mất mạng, chôn theo năm vạn quân trong cùng một giòng sông. Mình phải tấu về triều, tự hậu nếu đem quân sang Giao-chỉ, thì tránh dùng thủy chiến.



Huy để ý, trên sông có ba loại thuyền. Loại nhỏ nhất đan bằng tre, lòng thuyền trát nhựa cản nước. Loại này dài không quá mười bước, rộng không quá năm bứơc. Trên nóc thuyền có mui che mưa nắng. Có thuyền mui hình cong như ổ tò vò. Có thuyền mui là một tấm phên tre lợp lá, chống bằng bốn cọc tre. Loại thuyền thứ nhì bằng gỗ, dài từ hai mươi bước tới ba mươi bước. Loại này chỉ có một tầng. Trên mặt sàn thuyền, chở đầy hàng hóa. Thuyền di chuyển bằng sức chèo hoặc bằng sức chống của sào. Lọai thứ ba hơi ít, đó là thuyền đinh đi biển. Thuyền cao vòi vọi, dài hàng trăm bước, cao hai, ba tầng. Tầng trên cùng có nhiều cột buồm, có buồng lái cho tài công. Tầng thứ nhì, và tầng cuối có nhiều chèo.



Chợ Vạn-thảo chia làm hai loại gian hàng. Loại thứ nhất, ở trung ương gồm bốn cái đình lớn không tường, chỉ có cột gỗ, với nóc lợp ngói. Còn lại là lều, nóc bằng phên lát lá nón.



Phụng-Hiểu chỉ đình:



- Hàng ngày không có phiên, thì người trong làng họp chợ hôm. Chợ hôm ít người nên được họp trong đình. Khi có chợ phiên như hôm nay, thì ngày hôm trước người thị chợ phải đem cọc ra đóng, rồi chụp mái lều lên. Ai dùng lều phải trả tiền. Mỗi phiên một lều trả tiền-rưỡi.



Chợ gồm nhiều khu, khu bán tơ vải, khu bán ngũ cốc, khu bán rau cỏ, khu ban tôm cá, khu bán thịt. Qua khu bán quà, Mỹ-Linh cứ liên miên hỏi về các món ăn. Phụng-Hiểu trả lời không kịp. Vừa đến mấy hàng bún riêu, hơi xông lên thơm nức. Đinh-Toàn chỉ một hàng nói:



- Nào, mời các vị ngồi xuống ăn bún riêu đã.



Cô hàng bán bún riêu tuổi khỏang mười bẩy, mười tám, dáng người rỏng cao, khuôn mặt thanh nhã, đôi môi hồng mọng. Cô mặc áo lụa mầu mỡ gà, yếm trắng, đầu vấn khăn mỏ quạ. Cô thấy Phụng-Hiểu, hỏi:



- Anh trương-tuần. Anh dẫn khách đắt hàng cho em hả?



- Đúng vậy, này cô Trúc, cô phải trả ơn anh đấy nhé?



- Dĩ nhiên. Mình là người giáp Nhì với nhau, bao giờ chả bênh nhau.



Cô hỏi Đinh Toàn:



- Bún riêu có hai loại bát. Loại bát ăn cơm và loại bát ăn canh. Loại bát ăn cơm thì một tiền năm bát. Còn loại bát ăn canh thì một tiền hai bát. Bác muốn xơi loại nào?



Triệu Huy xen vào:



- Chúng tôi có chín người, với anh Hiểu là mười. Tôi xin trả tiền hết. Cô cứ múc mời khách. Bao nhiêu tiền tôi cũng trả.



Bún riêu là món ăn bình dân của thôn quê Đại-việt. Đối với Thanh-Mai, Phụng-Hiểu, họ ăn thường ngày. Còn Đinh Toàn, từ ngày lưu lạc đến giờ đã gần bốn mươi năm, bây giờ mới được ăn lại. Còn bọn Triệu Huy, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh lần đầu tiên được ăn món ăn thôn quê, họ ngồi chờ cô hàng múc riêu, miệng nuốt nước miếng ừng ực.



Cô hàng bún riêu lấy bún bỏ vào bát, rau muống của cô chẻ nhỏ như sợi tóc, ngâm nước, thành quăn queo. Trong rổ rau muống, còn có kinh giới, tía tô thái nhỏ. Hóa cho nên rổ rau muống đưa thêm mùi hương lên mũi thực khách thêm thơm tho. Sau khi bỏ bún vào bát, cô bốc rau muống, rau thơm bỏ lên trên. Cô không quên gắp tý mắm tôm với lát ớt vào cạnh bát. Cuối cùng, cô chan riêu, lễ phép mời khách:



- Mời các ông, các bác, các cô, các cậu xơi đi.



Đinh Toàn và hai ba cái, hết một bát. Cô hàng múc bát thứ nhì. Ông lại và mấy cái hết nhẵn. Trong khi đó Mỹ-Linh cũng ăn hết một bát. Nàng là công chúa, hàng ngày được ăn không biết bao nhiêu miếng ngon vật lạ, nhưng bún riêu là món bình dân, chưa bao giờ nàng được ăn. Sau khi ăn hai bát, bụng no rồi, nàng nghĩ:



- May mắn mình theo chú hai ra ngoài mới được ăn những món này. Chỉ tội hai đứa em Kim-Thành, Trường-Ninh của mình, ở mãi trong cung, chẳng được ăn miếng ngon thôn quê. Kỳ này về kinh, mình phải rủ bọn nó trốn ra ngòai thành Thăng-long ăn quà mới được.



Ăn xong, tính tiền, mười người ăn hết ba mươi mốt bát. Ngô Tích móc tiền trao cho cô hàng:



- Phương danh cô là Thanh-Trúc phải không? Ba mươi mốt bát giá mười tiền rưỡi. Nhưng tay cô đẹp thế kia, mà múc riêu cho bọn phàm phu tục tử như tôi ăn thì biết trả bao nhiêu cho vừa? Thôi tôi trả cô một quan vậy.



Một quan tiền Thuận-thiên là sáu trăm đồng, Tích trả cô gấp hai mươi lần gía bán thông thường.



Thanh-Trúc ngơ ngác không hiểu. Phụng-Hiểu giải nghĩa:



- Tiên sinh đây họ Ngô tên Tích, người nứơc Tống sang sứ nước ta. Tiên sinh thấy em xinh đẹp lễ phép, tặng thêm tiền cho em đấy.



Thanh-Trúc ít học. Nàng hỏi lại:



- Em đã dốt nát, không biết chữ, anh cứ nói chữ thì em hiểu sao nổi?



Phụng-Hiểu giảng nghĩa:



- Ông này là quan của Tàu. Vua Tàu sai đi sứ sang nước ta.



Thanh-Trúc tươi mặt:



- Cảm ơn ông sứ Tàu.



Nàng liếc mắt nhìn tay, rồi lại cúi xuống nhìn chân Triệu Huy. Triệu Huy chưa hết kinh ngạc, nàng lại nhìn Ngô Tích, Triệu Anh. Đinh Toàn lạ lùng hỏi:



- Cô hàng bún! Mấy vị này có gì lạ đâu mà cô nhìn kỹ thế?



Thanh-Trúc nhoẻn một nụ cười:



- Trong làng này có nhiều người ghẻ Tầu. Vì vậy tôi nhìn chân tay các ông Tầu xem có ghẻ không!



Bảo-Hòa vỗ vai Trúc:



- Cô đừng sợ. Ba ông sứ Tầu này không bị ghẻ chân tay, mà ghẻ tim, ruột.



Bọn Triệu Huy biết Bảo-Hoà chửi mình, nhưng giữa chợ, y đành nhịn cho qua.



Tới gốc cây đề, tiếng nhạc từ đâu đó vọng lại, êm tai lạ lùng. Mỹ-Linh rất giỏi âm nhạc, nàng lắng tai nghe, rồi nói:



- Tiếng đàn bầu. Tại sao giữa chợ quê này mà lại có nghệ sĩ tài ba đến thế nhỉ? Chúng mình lại xem đi.



Dưới gốc đa to cỡ mười người ôm. Một cặp nghệ sĩ đang trình diễn. Người chồng mù, tuổi khoảng ba mươi. Gương mặt khắc khổ, da dăn deo, nhưng đôi bàn tay rất đẹp. Người vợ tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu, gương mặt tươi như hoa. Đôi mắt sáng như sao.



Người chồng ngồi trước cây đàn bầu, đang bật lên những âm thanh réo rắt. Người vợ tay kéo nhị, miệng hát. Bọn Thanh-Mai tới, thì khúc hát vừa hết. Thính chúng vỗ tay rào rào. Người đàn bà bưng cái rổ chìa ra. Mọi người ném tiền vào trong. Nàng luôn miệng nói câu cảm ơn.
- Không sao cả. Em yên tâm.



Nói xong nàng gượng gạo vẫy tay gọi bố con ông thợ săn. Hai bố con ông cùng hơn mười người thợ săn khác không dám lại gần. Họ quỳ gối ở xa, lạy thụp xuống đất. Đối với thợ săn, thú rừng là những con vật linh thiêng, phải có thần tiên mới sai khiến được chúng. Họ thấy Bảo-Hòa sai thú của họ như họ sai chó. Nàng lại trang phục như người Thái, hơi khác lạ với người Kinh. Bảo-Hòa mỉm cười nói với ông thợ săn:



- Cụ giữ lời, hứa cho tôi mấy con thú này nghe.



Hai bố con ông thợ săn quỳ gối chắp tay lạy Bảo-Hòa liên tiếp:



- Tấu lạy tiên cô. Cô là người nhà trời, cô sai khiến đươc hổ báo. Con xin kính dâng cô hết.



Bảo-Hòa là con một lạc-hầu vùng bắc-biên Việt-Tống. Mẫu thân nàng hiện làm vua bà 207 khê động. Khi sinh ra đời được mười ngày, mẫu thân nàng bị cảm, rồi mất sữa. Với địa vị một vua bà, thì kiếm cho con một bà vú thực không khó. Nhưng mẹ nàng là người sùng đạo Phật, không muốn con mình bú người, mà con người không được bú mẹ, như vậy sinh ra nghiệp quả. Sẵn trong châu nuôi nhiều hổ, báo, thân phụ nàng nặn sữa hổ, báo nuôi nàng.



Khi đã lên bốn, lên năm, nàng vẫn còn ăn sữa. Một lần theo anh vào rừng chơi, chẳng may đi lạc. Bố mẹ nàng kinh hãi, xuất lĩnh trên trăm người đi tìm suốt hai ngày không thấy đâu. Mọi người cho rằng nàng bị thú dữ ăn thịt rồi. Bốn hôm sau một tóan thợ săn tìm thấy Bảo-Hòa đang ở trong hang cọp. Suốt mấy ngày nàng bú cọp, sống với bầy cọp con. Không ai hiểu tại sao cọp mẹ không ăn thịt nàng. Cuối cùng một người thợ săn cho biết rằng khi trẻ con uống sữa thú rừng lâu ngày tự nhiên trong người tiết ra mùi hương đặc biệt thoang thỏang như hoa lan rừng. Phàm thú dữ ngửi thấy mùi hương đó, thì không ăn thịt. Ngược lại còn phục tùng, trung thành như chó đối với chủ. Từ đấy dân chúng Bắc- biên coi nàng như công chúa con Ngọc-Hòang thượng đế giáng sinh, gọi nàng bằng cô. Nàng cũng xưng cô với họ, riết rồi thành quen.



Bảo-Hòa cũng như các đệ tử Tây-vu khác, được dạy tiếng nói của thú rừng, hầu sai khiến, chỉ huy như chỉ huy binh đội. Hôm nay, giữa lúc chị em lo sợ rằng sau khi chữa khỏi bệnh cho Triệu Anh, chắc chắn bọn chúng sẽ giết chết chị em nàng để phi tang... thì gặp bọn thợ săn bán thú rừng. Nàng dùng bản lĩnh Tây-vu, sai thú tấn công bọn chúng, mà thành công.



Bảo-Hòa mỉm cười:



- Không, cô không nhận của ông đâu. Đây cô trả tiền cho.



Nàng trả cho ông số bạc gấp đôi lần ông ra giá. Nàng nói:



- Ông mua cho mỗi con trăn một con gà. Mỗi cặp hổ, báo một đùi thịt trâu, bỏ vào cũi cho chúng ăn.



Khi bọn Triệu Anh đi rồi, trong lòng ông lý khả nghi. Ông sai một hoàng nam theo dõi hành tung của bọn chúng. Hoàng nam vừa đi, đã chạy về báo cho ông hay về cuộc giao chiến của chị em Thanh-Mai với bọn Triệu Huy. Ông ra lệnh đánh trống Ngũ-liên báo động, rồi dẫn đội hoàng nam đến đấu trường. Dân chúng có mặt kể cho ông nghe từ đầu đến cuối diễn tiến trận đấu. Ông đến nơi đúng lúc Thanh-Mai, Mỹ-Linh bắt Đàm An-Hòa, Triệu Anh. Trong lòng ông kinh hoàng, tự hỏi:



- Mấy cô gái này là ai, đang đi cùng Đàm hiệu úy, với Thiên-sứ, rồi lại sai hổ, báo, trăn bắt sống họ?



Bảo-Hòa vẫy tay gọi ông lý:



- Cụ lý. Mời cụ lại đây, tôi có truyện muốn nói với cụ.



Tiếng nói của nàng thanh tao, mà oai lạ lùng. Ông lý chắp tay:



- Tấu lạy tiên cô. Con muốn lại, nhưng... những ông kễnh này ghê quá. Con không dám.



Bảo-Hòa mỉm cười:



- Ông đừng sợ, những con chó, con mèo này hiền lắm. Nó không nhá thịt ông đâu. Thôi, ông sợ thì thôi. Phụng-Hiểu, anh lại đây.



Lê Phụng-Hiểu rất can đảm. Chàng hiên ngang tiến tới. Bảo-Hòa nói sẽ:



- Anh có biết cô là ai không?



- Tấu lạy cô không.



- Cô là con vua bà coi 207 châu động vùng biên giới bắc Đại-Việt. Bọn người Tầu này mưu hại cô. Cô ra lệnh cho hổ, báo bắt chúng. Vậy anh hãy sai hoàng-nam đóng kín cổng làng tìm cho được hai tên đồng bọn đang trốn đâu đó.



Một con báo liếm tay Phụng-Hiểu. Tuy chàng biết nó không cắn mình, mà chân tay cũng run run, người phát lạnh. Tiếng nói uy nghiêm của Bảo-Hòa khiến chàng không tự chủ được. Chàng lui lại gọi bốn đội trưởng hoàng-nam ra lệnh, tìm bắt Đinh Toàn, Quách Quỳ.



Thấy Lê Phụng-Hiểu dám lại bên Bảo-Hòa, ông lý làm gan, ông đến gần chắp tay lạy:



- Tấu lạy cô, xin cô ban lệnh.



Bảo-Hòa rút lệnh bài của mẹ, trao cho ông lý:



- Ông cho người phi ngựa về đinh tiết-độ-sứ Đinh Ngô-Thương, nói rằng cô đã bắt được bọn gian nhân. Đinh phải cho đạo binh Quảng-thánh tới giải tù nhân về.



Một người cụt tay, tuổi khỏang ba mươi rẽ đám đông đi ra. Ông lý chỉ người đó giới thiệu:



- Đây ông tiên chỉ làng Vạn-thảo.



Bảo-Hòa kinh ngạc không ít, vì xưa nay tiên chỉ phải là người già, đạo cao, đức trọng. Không ngờ tiên chỉ Vạn-thảo lại còn quá trẻ. Nhìn dáng điệu, khuôn mặt của ông tiên chỉ rất quen, mà nàng không nhớ đã gặp ở đâu. Người cụt tay cúi đầu chào Bảo-Hòa:



- Hoàng-triều thiên tướng Quách Thịnh xin kính cẩn ra mắt cô nương. Chẳng hay cô nương từ đâu gía lâm tệ xã?



Bảo-Hòa nghe đến tên Quách Thịnh, nàng á lên một tiếng, mừng rỡ:



- Quách tướng quân quên cô rồi sao? Cách đây năm năm, tướng quân theo cậu hai của cô là Dực-thánh vương, đem quân giúp mạ mạ đánh bọn Tầu-ô Đại Quang-Lịch, đốt trại Như-hồng trên đất Tống. Sau đó tướng quân bị thương ở tay. Mạ mạ đem về nhà dưỡng thương hơn tháng mới khỏi. Lúc ấy cô thường gọi hùm, gọi báo đến chơi đùa với tướng quân. Sau trận đó, ông ngọai thương xót, phong cho tướng quân tước Trung-thành hầu, ăn lộc một nghìn hộ.



Người cụt tay đã nhận ra Bảo-Hòa:



- Thì ra quận chúa. Tiểu tướng thực vô tâm. Cũng tại quận chúa mau lớn qúa, tiểu-tướng nhận không ra. Thấm thoát đã trên năm năm. Bây giờ quận chúa xinh đẹp như thế này rồi. Tiểu tướng xin ra mắt quận chúa.



Bảo-Hòa chỉ Mỹ-Linh:



- Bình-Dương là con gái lớn cậu cả đấy.



Quách Thịnh chắp tay:



- Thần Trung-thành hầu xin tham kiến công chúa điện hạ.



Quách Thịnh gọi ông lý:



- Mau đánh trống rước công chúa, quận chúa về đình.



Quách Thịnh đến bên Bảo-Hòa:



- Từ sau khi được hoàng thượng phong cho tước hầu. Tiểu nhân trở về làng cũ lấy vợ, được dân chúng tôn làm tiên chỉ. Tuy ở thôn dã, tiểu nhân cũng vẫn lấy việc dạy dỗ lớp sau, hầu khi quốc gia hữu sự, cho chúng ra giúp nước.



Dân làng đã đem đến ba cái kiệu để rước chị em Thanh-Mai. Bảo-Hòa xua tay:



- Cô không đi kiệu đâu. Chị Thanh-Mai cỡi ngựa. Mỹ-Linh đi kiệu. Cô cỡi hùm được rồi.



Bảo-Hòa nói với đám thợ săn:



- Các ông chở mấy cái cũi trăn này theo cô. Còn mấy con chó, con mèo của cô thì không cần.



Nàng nhảy lên lưng cọp, hô một tiếng, nó rảo bước theo sau kiệu Mỹ-Linh. Con hùm còn lại, cùng hai con báo đi cạnh nàng.