Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 28 :

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Thầy Tăng Mở Nước - - ---nh Nam Vũ Kinh



Câu truyện đến chỗ gay cấn nhất, Bố-Đại hòa thượng móc tay vào vách đá, một viên đá bật ra. Ông chĩa tay vào hốc, nước từ trong vọt ra có vòi. Ông há miệng cho nước bắn vào. Ông uống rất ngon lành. Ông hỏi Mỹ-Linh: - Con bé có uống không?



Không đợi nàng trả lời, ông chĩa ngón tay vào hốc. Nước vọt ra trúng vào miệng nàng. Nàng uống no rồi, ông lại cho vòi nước bắn vào người Thiệu-Thái. Đợi Thiệu-Thái uống xong, ông cầm viên đá lấp cái lỗ lại. Ông cười:



- Ta biết sau viên đá có suối ngầm, bèn tìm cách cậy đá ra, lấy nước uống. Thôi để ta thuật tiếp. Tự-Viễn dẫn hổ, báo đi khắp bảo điện tìm nhà sư cướp con nai của mình, mà không thấy. Khi ông đến chỗ tổ Pháp-Hiền, thấy tổ đang gõ mõ tụng kinh. Ông đẩy tổ một cái. Tổ không nhúc nhích. Ông vận sức đẩy cái nữa tổ cũng không nhúc nhích. Ông kinh ngạc, vì hàng ngày, ông đẩy một cái, đến voi cũng phải ngã. Cớ sao tổ không ngã. Ông hít hơi, đánh một hỗ quyền vào vai tổ. Ông cảm thấy trời long đất lở, mắt nảy đom đóm, trong tai những vo vo không ngừng. Ông kinh hòang, vận sức đánh một chiêu Hổ-quyền nữa. Lần này tay ông dính vào lưng tổ, gỡ không ra. Tổ chợt ngừng tụng kinh, nhìn ông mỉm cười : Con ngồi xuống đây. Chúng ta có duyên với nhau. Thế là Trần Tự-Viễn được tổ thu làm đệ tử. Ngược lại ông dạy ngoại công cho đồng môn Tiêu-sơn.



Mỹ-Linh như từ trong tối ra sáng:



- Thì ra thế. Con nghe người đời nói Ngọai công Tiêu-sơn phát xuất từ phái Đông-a là thế.



- Đúng. Sau, về già, Trần Tự-Viễn dẫn con cháu đến vùng Thiên-trường, lập ra phái Đông-a. Từ đó đến giờ trải 427 năm. Phái Đông-a nghiên cứu thêm về nội công. Phái Tiêu-sơn nghiên cứu thêm về ngọai công. Cho nên võ công hai phái khác biệt nhau, nhưng đại thể lại giống nhau là thế.



Thiệu-Thái ngẫm nghĩ một lúc, rồi hỏi:



- Đại sư đã chỉ cho biết rõ nguồn gốc phái Tiêu-sơn, Đông-a. Nhưng đại-sư vẫn chưa chỉ rõ cho biết nguồn gốc thầy tăng mở nước do đâu mà có.



Bố Đại cười:



- Khoan, khoan đã nào. Phái Tiêu-sơn chỉ dạy đệ tử thuộc tăng giới mà không dạy đệ tử tục gia. Truyền qua đời thứ tám, chưởng môn phái Tiêu-sơn là tổ Định-Không. Ngài thấy dân Việt bị cai trị trải gần tám trăm năm, điêu linh vô hạn. Cái họa bị đồng hóa sắp đến. Trong khi quan lại Trung-quốc sang cai trị, đều thuộc loại tàn ác. Ngài muốn lập lại nước Việt. Nhưng bấy giờ người Việt bị cai trị đã trên tám trăm năm, ý thức quốc gia không mấy người chú ý nữa. Ngài phải làm một cái gì cho ý thức ấy sống lại. Ngài đi khắp đất nước, tìm lấy một thế đất phát đế vương, rồi chờ thời cơ, ai có duyên trời cho sẽ được táng mả tổ tiên vào đó.



Mỹ-Linh hỏi:



- Thưa sư thúc tổ, ngài có phải chờ lâu không?



- Ngài không mất công lâu, đã thấy ngôi đất ấy tại làng Dịch-bảng. Ngài mới làm ngôi chùa gần ngôi đất, chùa đó tên Quỳnh-lâm (785) .Trong khi đào đất xây chùa, ngài tìm thấy mười cái khánh và một chiếc lư hương. Khi đem xuống sông rửa, một chiến khánh chìm mất. Ngài nói Mười chiếc là thập khẩu .Chữ thập với chữ khẩu thành chữ Cổ .Một chiếc rơi xuống tức thủy khứ viết chung lại thành chữ pháp. Ngài đặt tên cho thế đất đó tên Cổ-pháp. Ngài nói thế đất này sau sẽ nảy sinh ra một vị đế vương. Ngài làm bài thơ ghi lại sự kiện ấy:



Địa trình pháp khí,



Nhất phẩm tinh đồng.



Tri Phật pháp chi hưng long,



Lập hương danh chi Cổ-pháp.



Pháp khí xuất hiện,



Thập khẩu đồng chung,



Lý hưng vương, tam khấu thành công.



Thiệu-Thái không thông Hán-văn, chàng đưa mắt nhìn Mỹ-Linh cầu cứu. Mỹ-Linh giải thích :



- Bài thơ trên tạm dịch như sau:



Đất trình ra pháp khí,



Phẩm chất lại tinh đồng.



Phật pháp sắp hưng long,



Làng mang tên Cổ-pháp.



Pháp khí lại cùng hiện,



Gồm mười chiếc khánh đồng,



Họ Lý làm vua, ba phẩm thành công.



Bố Đại tiếp:



- Khi tổ Định-Không viên tịch, ngài trối trăn lại cho đệ tử là tổ Thông-Biện rằng Thế đất linh này phải coi sóc cẩn thận. Đừng để người ta phá đi. Cũng đừng để người ta đem xương chôn trộm vào. Tổ Định-Không gìn gĩư trọn vẹn. Khi tổ viên tịch, trối lại cho tổ La Qúi-An (852-936). Trong thời tổ La Qúi-An, thế đất này vượng qúa, chiếu sáng rực lên không. Bên Trung-quốc, các quan Thiên-văn nhìn rõ, tâu lên vua Đường Ý-tông (860-873). Vua Đường nghĩ lại thời vua Trưng, Lĩnh-Nam hùng mạnh làm nghiêng ngả giang sơn nhà Hán. Vua sai quan Thái-sử Cao-Biền sang làm An-nam đô hộ. Trước khi Biền đi, vua ban chỉ dụ An-Nam hiện có nhiều thế đất vượng đế vương. Khanh sang ếm hết đi. Sau đó vẽ bản đồ đem về cho trẫm xem. Biền đến đất Việt, qua núi sông nào có vượng khí y ếm hết. Biền tâu về rằng các thế đất ếm được cả. Duy núi Tản-viên không ếm được. Tổ La Qúi-An biết Biền đào lỗ 19 chỗ, ếm thế đất Cổ-pháp. Tổ bèn lấp lại cả. Trong khi lấp, tổ trồng mười chín cây lê. Đêm đó tổ nhập thiền, rồi làm một bài kệ tiên đoán tương lai đất nước như sau:



Đại sơn long đầu khởi,



Cù vĩ ẩn chu minh.



Thập bát tử định thành,



Đào thụ hiện long hình.



Thố kê thử nguyệt nội,



Định kiến nhật xuất thanh.



Bố-Đại ngừng lại hỏi Mỹ-Linh:



- Con nhí. Hiểu không?



Mỹ-Linh đáp:



- Đệ tử thấy nghĩa tối quá. Đệ tử hiểu như thề này: đầu rồng nổi lên ở núi lớn. Đuôi rồng dấu sự thịnh vương. Mười tám người sẽ thành công.



Cây đào hiện ra hình rồng. Trong tháng thỏ, gà, chuột, sẽ thấy mặt trời mọc lên trong trẻo.



Bố-Đại võ tay vào bụng kêu bồm bộp:



- Đại sơn long đầu khởi, chỉ vào việc Lê Hòan lên ngôi vua vào năm Canh-thìn (980). Suốt thời gian hai mươi bốn năm thịnh vượng. Cho đến cuối năm Giáp-thìn (1004) linh khí hết. Đó là năm vua Lê lâm bệnh, rồi năm sau băng. Thập bát tử thành để chỉ họ Lý. Chữ Lý gồm chữ thập, chữ bát , chừ tử . Đào thụ hiện long hình, chỉ vào việc Tín-nghiã hầu Đào Cam-Mộc, người khuyên Lý Công-Uẩn lên ngôi vua. Thố, kê, thử nguyệt nội. Thố là con thỏ, kê là con gà, thử là con chuột. Câu này ý nói trong tháng thỏ tức tháng hai, tháng gà tức tháng tám, tháng chuột tức tháng mười một. Trong ba tháng đó, nhà Lý dựng nghiệp, như mặt trời mọc lên trên bầu trời trong sáng.



Mỹ-Linh được nghe về nguồn gốc sự dựng nghiệp của ông nội mình, nàng không ngờ ngài La-qúi-An sống trước ông nội trên trăm năm mà đã biệt việc mai sau. Nàng hỏi:



- Bấy giờ có ai giải được ẩn nghĩa này không?



- Không. Ngài La Quí-An còn quyên góp vàng bạc, đem chôn, dặn đệ tử khi nào có cuộc khởi binh, hãy mang ra dùng.



Thiệu-Thái hỏi:



- Đại sư nói rằng thế đất đó do phái Tiêu-sơn trông coi. Trong chùa lúc nào cũng có hàng trăm đệ tử, thế thì ai đến thế đất đó mà táng được?



Bố Đại cười:



- Thế mà tổ tiên họ Lý táng được mới kỳ. Nguyên ông thân sinh ra Lý Công-Uẩn không biết họ gì. Ông là người làm ruộng cho chùa. Một ngày ông làm ruộng xong, mệt quá, lại nhân trời lạnh, ông thấy một hàng rào, rào xung quanh một cái hố. Ông vào đó nằm ngủ, rồi chết luôn. Mối đùn đất lên che phủ người ông. Chiều người nhà không thấy ông về, đi tìm, mới hay ông chết. Các tổ Tiêu-sơn thấy vậy, cho rằng ông có phúc được hưởng. Lệnh lấy đất đắp quanh mộ để bảo vệ. Vì vậy con cháu mới phát lên được. Bấy giờ Công-Uẩn mồ côi cha, được sư điệt ta là Lý Khánh-Vân nhận làm con nuôi, cho y mang họ Lý. Do ngôi mộ của bố phát phúc Uẩn mới phát lên được. Sau này Công-Uẩn lên ngôi vua truy phong cho bố làm Hiển-khánh đại vương. Y là người hiếu thuận, nên không trở lại họ mình, vẫn giữ họ Lý của nghĩa phụ.


Bố-Đại bảo Thiệu-Thái:



- Thời cơ đã đến rồi, người bẻ song sắt đi.



Thiệu-Thái hít hơi, vận sức bẻ thử. Song sắt chỉ hơi chuyển động. Bố Đại cười:



- Con lợn ơi là con lợn. Thiền công của sư huynh ta thuộc vô nhân tướng công Vậy người phải tập trung tinh thần, bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt thân, ý, công lực mới phát ra được.



Thiệu-Thái cố gắng nhắm mắt bỏ hết Lục-tặc ra ngoài rồi vận lực sức kéo mạnh. Hai cái song từ từ trở lại vị trí cũ.



Bố Đại lắc đầu:



- Nếu con lợn hiểu được hết lẽ nhân, ngã tứ tướng người chỉ sẽ kéo một cái, các song sắt bị gẫy liền.



Thiệu-Thái quỳ gối:



- Xin Đại-sư từ bi hỷ xả thương xót đệ tử chỉ cho thấy rõ cái lý về tính không.



Bố Đại vỗ tay vào vai Thiệu-Thái:



- Con lợn nói câu đó là hết lợn tính rồi. Người giác ngộ mau thực.



Mỹ-Linh nghe anh nói câu đó, nàng cũng mừng, vì chàng thoát khỏi cái u mê của chúng sinh.



Bố Đại giảng:



- Ta đã giảng trong kinh Bát-nhã, Kim-cương, Lăng-gìa đều nói về tính không. Ta cũng nói đạo đức Thế-tôn tuy có hàng vạn pháp môn, nhưng thu về chỉ một mối. Cũng như đức Thế-tôn dạy đạo của ta không có chỗ khởi đầu, cũng không có chỗ tận cùng là thế.



Thiệu-Thái tỉnh ngộ, gật đầu liên tiếp, tỏ vẻ hiểu biết. Ngược lại Mỹ-Linh ngơ ngác không hiểu gì.



Bố Đại tiếp:



- Từ khi đức Thích-ca mâu-ni đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi đi thuyết pháp trong mấy chục năm. Thường người nào có nhân duyên, chỉ nghe qua, là vào cửa Bồ-đề liền. Trong khi người thông minh, nghe lại không giác ngộâ được. Như khi ngài Tăng-gỉa Nan-đà thuyết pháp tại hồ Động-đình, thông minh tuyệt thế như Trưng Nhị lại không giác ngộ được. Trong khi Phật-Nguyệt, Trần Năng ngộ ngay. Lại như trong trận đánh đồi Vương-sơn. Hiện diện có hàng trăm người. Thế mà ngài tụng kinh Lăng-gìa, Bát-nhã lên, duy Trần Năng giác ngộ, áp dụng vào việc xử dụng thần công tại chỗ. Còn lại đều không thấu được. Cũng như việc tổ Pháp-Hiền đắc pháp vậy... con nhí hiểu chưa? Con nhí học nhiều, cực kỳ thông minh, nhưng vô duyên, nên không hiểu. Còn con lợn, tuy ngu tối, nhưng có duyên, độp một cái hiểu liền.



Thiệu-Thái hỏi:



- Bạch đại-sư, truyện tổ Pháp-Hiền đắc pháp ra sao?



Bố Đại bảo Mỹ-Linh:



- Con nhí nói cho con lợn nghe đi.



Mỹ-Linh đã nghe nói hàng trăm lần giai thoại này, nàng thuật:



- Ngày nọ, Bồ-tát Tỳ-ni Đa-lưu-chi đến Đại-Việt. Sau khi vân du khắp nơi, ngài nghe nói chùa Pháp-vân nơi hòa thượng Pháp-Duyên làm phương trượng, có hơn ba trăm tăng chúng tu học. Ngài chống gậy tới tìm người thừa kế tâm ấn. Tới nơi, ngài rung chuông. Chú tiểu Pháp-Hiền chạy ra mở cổng. Chú thấy một hòa thượng da đen, biết ngài từ Tây-Trúc qua. Chú thụp xuống lạy. Bồ-tát hỏi:



- Chú tiểu tên gì?



Pháp-Hiền hỏi lại:



- Thầy tên gì?



Bồ-tát lại hỏi:



- Chú tiểu có tên không?



Pháp-Hiền đáp:



- Tên thì ai mà chẳng có. Đố thầy biết tôi tên gì?



Ngài quát lên:



- Biết để làm gì?



Pháp-Hiền tỉnh ngộ, quỳ xuống lạy, và được truyền tâm ấn.



Bố Đại hỏi Thiệu-Thái:



- Lợn hiểu không.



Thiệu-Thái cung kính thưa:



- Bạch đại-sư. Bồ-tát muốn biết tổ Pháp-Hiền đã thoát ra khỏi cái vòng nhân ngã tứ tướng đầu tiên là ngã tướng chưa, mới hỏi Chú tiểu tên gì.Quả nhiên ngài Pháp-Hiền còn trong vòng u mê, còn nguyên sắc tướng. Ngài coi cái tên quan trọng vô cùng, nên hỏi Hòa thượng tên gì. Bồ-tát muốn thử lại một lần nữa Chú tiểu có tên không?. Không những tổ Pháp-Hiền chưa thoát khỏi u mê, coi cái tên quá quan trọng, hỏi Đố thầy biết tôi tên gì?. Bồ-tát mới quát lên Biết để làm gì?. Bấy giờ tổ mới tỉnh ngộ, quỳ xuống lạy.



Bố Đại giảng tiếp:



- Cái tính không là thế. Trong nhân ngã tứ tướng thì Ngã tướng tức tướng của mình quan trọng hơn hết. Nếu có bỏ ra được cái ta, xóa cái ta đi, mới không có cái người tức Nhân tướng. Khi không có nhân tướng, đương nhiên không có nhiều nhân tướng. Nhiều nhân tướng tức thành Chúng sinh tướng. Cho nên Thiền-công nhà Phật có ba lọai. Một là Vô ngã tướng tưởng bị thất truyền. May đâu còn chép trong di thư Lĩnh-Nam, mà con nhí học được. Hai là Vô nhân tướng truyền vào Trung-nguyên qua ngài Bồ-đề Đạt-ma, và truyền vào Đại-Việt qua ngài Tỳ-ni Đa-lưu-chi. Còn Vô chúng sinh tướng thần công là tổng hợp của Vô ngã tướng và Vô nhân tướng. Trước kia tưởng thất truyền vì Vô ngã tướng không còn. Nay tìm lại được, hợp với Vô nhân tướng thì coi như không mất.



Mỹ-Linh hỏi:



- Thái sư thúc tổ. Xin người chỉ cho đệ tử phương pháp hợp hai thức nhân, ngã lại.



Bố Đại cười:



- U mê. U mê. Giác ngộ phải tự mình chứ ai dạy được? Phàm phép tu Phật, đắc pháp là đắc pháp, chứ làm gì có sắp đắc pháp, họăc đắc pháp một nửa họăc đắc pháp chút chút.



Thiệu-Thái đến trước cửa sổ của Bố-Đại, chàng nói vọng vào:



- Đai-sư. Đệ tử bẻ song cho đại-sư ra. Chúng ta cùng đi tìm Nguyên-Hạnh tính tội y.



Bố Đại cười:



- Con lợn. Nếu ta muốn ra, ta bẻ lấy không được sao? Ta cứ ngồi đây cho đến khi nào hết nghiệp quả thì thôi.



Mỹ-Linh bảo Thiệu-Thái:



- Trước khi sư phụ xuất hồn, người dặn rằng anh phải nhắc tảng đá bên kia, bỏ nhục thể người vào đó.



Thiệu-Thái đến bên tảng đá lớn. Chàng hít một hơi chân khí, không tâm đẩy mạnh. Viên đá từ từ lui sang một bên, để hở ra một hang động vuông vức mỗi chiều khoảng mười thước. Chàng kính cẩn mang nhục thể sư phụ bỏ vào đó, rồi đẩy tảng đá che lại.



Vừa lúc đó có nhiều tiếng chân người đi lại. Tiếng Nguyên-Hạnh hỏi:



- Thằng cha Sùng-Phạm đâu rồi?