Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 4 : Tình trong như đã

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Tình Trong Như Đã



- Phía bên Trung-quốc có hơn ngàn cao thủ. Phía bên Việt cũng gần 500. Minh-Không đại sư thấy, nếu xẩy ra cuộc đại chiến thì cả hai bên tổn thất không ít. Ngài đề nghị mỗi bên cử ra ba cao thủ đấu với nhau. Hễ bên nào thắng hai cuộc, coi như thắng. Nếu bên Việt thắng, thì bên Tống phải bắt đám binh lính bên họ thả những người dân Việt bị bắt. Ngược lại bên Tống thắng, bên Việt phải rút lui.



Quách Quỳ gật đầu:



- Đúng thế. Võ lâm Trung-nguyên do Giác-Minh đại sư, thủ tọa Đạt-Ma đường chùa Thiếu-lâm thống lĩnh. Phía Đại-Việt do quốc sư Minh-Không chưởng môn phái Tiêu-sơn thống lĩnh. Trận đầu Đại-Việt cử Nghi-Hòa sư thái thuộc phái Mê-linh đấu với Duyên-Hòa sư thái thuộc phái Nga-mi.



Nói đến đây nó đưa mắt nhìn Tôn Đản một cái. Tôn Đản cười:



- Tất nhiên trận này bên Đại-Việt thắng.



Tự-Mai ngạc nhiên:



- Này anh Đản, anh biết rộng đấy nhỉ.



Tôn Đản lắc đầu:



- Tôi đoán vậy thôi. Vì kiếm pháp phái Mê-linh gốc từ vua Bà. Kiếm pháp này vô địch. Khởi thủy do Vạn-Tín hầu Lý Thân tức thánh Chèm chế ra. Thánh Chèm dùng biết bao tâm não, nghiên cứu tất cả kiếm pháp Trung-nguyên, rồi tìm ra nguyên tắc khắc chế. Vì vậy thời Lĩnh-nam không một cao thủ Trung-quốc nào địch nổi kiếm pháp này.



Quách Quỳ hỏi:



- Thời Lĩnh-nam nhiều người biết xử dụng kiếm pháp này lắm ư?



Tôn Đản cười:



- Chỉ có bốn người. Đầu tiên đại hiệp Nguyễn Phan dạy cho Bắc-bình vương Đào Kỳ. Vương dạy lại cho vương phi là tể tứơng Nguyễn Phương-Dung. Ngòai ra sau khi ra khỏi nhà tù, đại hiệp Nguyễn Phan còn thu nạp một nữ đệ tử là Bồ-tát Phật-Nguyệt... Kiếm pháp Mê-linh xuất phát từ thời vua Bà vì vậy tôi mới đoán rằng Duyên-Hòa sư thái bị bại.



Quách Quỳ cười:



- Thế nhưng trận đầu bên Lĩnh-nam không thắng. Hai vị sư thái đấu đựơc 200 hiệp, rồi cả hai cùng bị gẫy kiếm. Coi như hòa.



Tôn Đản lắc đầu:



- Tôi không tin.



Tự-Mai gật đầu:



- Đúng, trận đó hòa. Vì kiếm pháp Mê-linh hiện không còn đầy đủ. Nguyên sau khi vua Bà tuẫn quốc, Bắc-bình vương cùng vương phi tử chiến ở thành Long-biên. Nữ vương Phât-Nguyệt tuyệt tích. Vì vậy kiếm pháp ảo diệu đó lưu truyền thì có, nhưng yếu quyết biến hóa bị thất truyền.



Tôn Đản không chịu:



- Nhất định phải có. Bằng chứng là sau này Lệ-hải Bà-vương còn xử dụng đánh quân Ngô những trận trời long đất lở.



Thanh-Mai gật đầu:



- Đúng! Nguyên trước khi đánh trận Lãng-bạc, vua Bà truyền chép tất cả bí quyết võ công, cùng văn minh thời Lĩnh-nam, trong đó có bộ Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên, rồi sao cho mỗi phái giữ một bản. Chắc chắn Lệ-hải Bà-vương học được kiếm pháp trong di thư ấy. Đều khiến chúng ta phải tìm hiểu xem Lệ-hải Bà-vương học ở đâu?



Quách Quỳ hỏi:



- Lệ-hải Bà-vương là ai vậy?



Trung-Từ đáp:



- Là bà Triệu. Bà Triệu quê ở Cửu-chân, cùng anh là Triệu Quốc-Đạt khởi binh vào niên hiệu Diên-hy năm thứ 11 (248). Bà cùng anh chỉ có 300 chiến sĩ. Mà đánh chiếm đựơc cả vùng Cửu-chân trong vòng năm ngày. Sử nói rằng bà đi đến đâu, đầu quân Ngô rơi đến đấy. Vì vậy người Ngô làm thơ ca tụng bà. Thơ đó nay hãy còn lưu truyền.



Quách Quỳ đọc lớn:



- Cửu Chân thị địa linh.



Hùng khí tải thiên niên.



Diên-hy xuất nhất nữ.



Trí dũng thực vô biên.



Nam nhi bất khả cập. Thế thế nhân nhân truyền.



Hoành giáo đương hổ dị.



Đăng sơn đối Bà nan.



Ghi chú



Tôi không biết tác giả bài này là ai? Cũng chẳng thấy chép trong sử Trung-quốc, Việt-Nam. Tôi ghi theo trí nhớ trong tập sách chép tay bằng chữ Hán, dạy Nam-sử cho thiếu niên Việt tên "Nam-sử cương yếu" mà tôi được học vào năm bẩy tuổi.



Tôn Mạnh hừ một tiếng:



- Thơ chữ Hán, khó hiểu quá.



Thanh-Mai dịch:



- Cửu-chân là đất thiêng,



Hùng khi trải bao năm,



Diên-hy sinh một nữ (3) Trí dũng thực vô biên,



Nam nhi không sánh kịp.



Đời đời miệng người truyền:



Cầm giáo chống hổ dễ,



Lên núi đối bà nan.



Ghi chú



Diên-hy là niên hiệu của Hậu-chúa, năm bà Triệu khởi binh nhằm niên hiệu Diên-hy thứ mười một (248 sau Tây-lịch).



Tự-Mai khen:



- Quách công tử thực không uổng xuất thân danh gia. Thơ văn nào cũng thuộc làu.



Quách Quỳ nói:



- Không hẳn thế đâu. Trứơc khi sang đây. Tôi phải học nói tiếng Việt cùng lịch sử, văn học Đại-Việt. Để tôi tiếp. Trận thứ nhì thì Huyền-Thanh đạo trưởng, chưởng môn phái Võ-đang đại diện Trung-quốc. Đại hiệp Trần Tự-An đại diện Đại-Việt.



Thanh-Mai, Tự-Mai đều bật lên tiếng ồ một lúc. Quách Qùy hỏi:



- Có gì lạ không?



Thanh Mai lắc đầu:



- Không.



Song trên mặt ba chị em hiện lên nét kỳ dị. Vì Trần Tự-An chưởng môn phái Đông-a chính là thân phụ chị em Thanh-Mai. Tuy hai người từng nghe bố kể về trận đấu này nhiều lần rồi, thế nhưng nay nghe người ngoài kể, hai người không khỏi có nhiều điều tự hào.




Thanh niên công tử đưa mắt nhìn vị hoà thượng, rồi hỏi:



- Bốn viện đó khác nhau thế nào?



- Viện Kinh-dương chuyên về kinh. Viện Lạc-long chuyên về triết. Viện Âu-cơ chuyên về văn. Viện Bách-tộc chuyên về sử. Ngoài ra còn Thiên-văn, coi về lịch số. Y học viện coi về y học. Viện Thần-nông coi về canh nông, chăn nuôi. Thời Triệu Đà, y vốn là người Hán. Y không cấm học chữ Khoa-đẩu, nhưng dùng chữ Hán làm văn tự chính thức. Hoá cho nên văn học, tư tưởng trải mấy trăm năm suy thoái. Tuy vậy sách vở cũng không bị mai một làm bao.



Nó ngừng lại, nhìn chị với thanh niên công tử, rồi ngửa mặt lên trời cười tủm:



- Đến thời vua Trưng, công chúa Phùng Vĩnh-Hoa làm bản thống kê còn được bẩy mươi tư nghìn, chín trăm tám mươi tám bộ. Bà cũng chia ra bốn lọai là kinh, triết, văn, sử. Kinh thì có các bộ Bách-tộc, Kinh-dương, Lạc-long, Thiên-huấn, Điạ-nghĩa. Triết thì ôi thôi nhiều vô kể. Văn thì có hàng hai chục ngàn bộ. Sử thì chỉ có chín mươi chín bộ mà thôi. Những sách chép về y học, thiên văn học, lịch số học, cùng hàng nghìn bộ môn lặt vặt. Có thể nói, đương thời, văn minh hai nước Hoa, Việt ngang nhau. Khi Mã Viện chiếm nước ta, y ra lệnh thu hết sách chở về Lạc-dương, cấm học chữ, tàng cất sách bằng văn tự Khoa-đẩu. Vì vậy nay chúng ta không biết đâu mà mò.



Thanh niên công tử cười:



- Xin lỗi các em, anh nghe lầm. Các em cứ tiếp tục câu truyện đi.



Tự-Mai không chú ý đến thanh niên công tử nữa. Nó nói:



- Tất cả đều đoán không đúng. Pho tượng bị cụt đầu.



Đám trẻ cùng cười ồ lên, đầy vẻ khoái trá. Tự-Mai tiếp:



- Trương Tân nổi giận la hét. Nhưng nào biết ai đã làm truyện đó? Y truyền lệnh thu tất cả nồi, bát, xanh bằng đồng. Bắt dân chúng đúc pho tượng khác. Rồi tổ chức một buổi lễ thứ nhì. Lần này cẩn thận hơn. Y cắt cử một toán quân canh gác. Đến ngày lễ. Y cũng trịnh trọng gỡ tấm vải che tượng ra. Một lần nữa tất cả mọi người đều trợn tròn mắt.



Thanh niên công tử hỏi:



- Cái gì đã xẩy ra?



Tự-Mai cười:



- Trong tấm vải không phải là pho tượng. Pho tượng biến mất. Thay vào đó là một người. Người ấy quát lên một tiếng, đưa lưỡi kiếm. Đầu Trương Tân rơi xuống đất. Kiếm khách ấy vọt người lên, đục thủng mái đền, rồi biến mất. Đám võ sĩ hộ vệ Trương Tân không kịp trở tay.



Thanh niên công tử hướng sư thái Tịnh-Huyền xá một xá:



- Thực đúng thầy nào, trò đó. Em nhỏ này, mới có bấy nhiêu tuổi mà kiến thức sâu xa hiếm người bằng. Xin phép sư thái để chúng tôi được tạ thầy đồ tí hon một lễ vật. Không biết sư thái có cho phép không?



Sư thái Tịnh-Huyền chắp tay:



- A-Di-Đà Phật. Công tử quá khen. Tự-Mai, con mau tạ ơn công tử đi.



Công tử phất tay không cho Tự-Mai hành lễ, rồi tháo trên cổ ra chuỗi tràng hạt bằng ngọc mầu xanh, đeo vào cổ cho Tự-Mai:



- Món quà này không xứng đáng với những kiến thức về anh hùng Đại-Việt của em.



Mọi người đều kinh ngạc đến ngẩn người ra. Vì không ngờ công tử tặng món quà quá lớn. Trong khi chỉ mới biết nhau.



Tự-Mai đinh từ chối. Sư thái Tịnh-Huyền vẫy tay:



- Con đa tạ sư huynh đi. Con phải nhớ. Duyên pháp nhà Phật không phải một lát mà có. Ngọc sư huynh tặng con không thể quí bằng vật mà công tử dùng hàng ngày. Vật công tử dùng hàng ngày không gì quí bằng tràng hạt.



Tự-Mai chắp tay :



- Đa tạ công tử tặng quà.



Rồi nó liếc mắt nhìn chị, nháy mắt, méo mồm một cái.



Thanh niên hỏi:



- Thế sau khi Trương Tân chết rồi thì ai thay thế y cai trị Giao-chỉ? Võ lâm Việt có giết thứ sử nữa không?



Tự-Mai đáp:



- Sau khi Trương Tân bị giết. Quan lại Trung-quốc cai trị Giao-chỉ, Nhật-nam, Cửu-chân, Quế-lâm kinh tâm động phách. Triều Hán cử nhiều người sang thay thế. Nhưng họ đều sợ hãi không giám đáo nhậm. Cuối cùng triều Hán cử Sĩ Nhiếp kiêm nhiệm.



Tôn Đản hỏi:



- Thế Sĩ Nhiếp là người tốt hay xấu?



Thiện-Lãm cười khì:



- Đản ơi! Mày lẩm cẩm quá đi. Đã là quân Hán sang đất mình kiếm ăn thì làm gì có đứa nào tốt nữa.



Tự-Mai cười:



- Không hẳn vậy đâu. Y cũng có cái tốt. Cái tốt của y xuất phát từ tham vọng. Y muốn nhân thời thế loạn lạc, mưu đồ lập nghiệp lớn. Tạo dựng một triều đình riêng như Triệu Đà khi xưa.



Thuận-Tông chửi thề:



- Con mẹ nó. Cũng một loại muốn ngồi lên đầu lên cổ dân mình.



Tự-Mai tiếp:



- Tổ tiên nhà họ Sĩ vốn người đất Lỗ vùng Sơn-Đông. Thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, bỏ quê hương, đến Lĩnh-nam lập nghiệp ở Thương-ngô thuộc Nam-hải. Trải sáu đời, đến cha Sĩ Nhiếp là Sĩ Tứ, làm thái thú Nhật-nam cai trị dân Việt mình.



Thiện-Lãm cau mặt:



- Lại một thứ tham quan. Chắc trước khi đến cai trị, hẳn y đã nghe tin thái thú đời trước là Nhâm Diên bị giết?



Tự Mai tiếp:



- Sĩ-Tứ cho con là Sĩ Nhiếp sang kinh đô Lạc-dương theo học. Y đỗ Hiếu-liêm được bổ làm thượng thư lang. Chỉ ít lâu thì bị cách. Y tiếp tục học, thi đậu Mậu-tài. Vừa lúc đó Sĩ Tứ bị giết.



Tôn Đản hỏi:



- Ai giết?



- Không rõ tên họ, gốc tích. Chỉ biết đó là một thiếu niên mười hai, mười ba tuổi như bọn mình. Nguyên Sĩ Tứ thấy dân chúng Nhật-nam thờ kính đại anh hùng Đô Dương thời Lĩnh-nam. Họ còn bịa đặt ra lời phán của Đô đại vương bằng cách mời ngài về đồng. Ngài chuyên phán phải làm thế này, thế kia. Mà những điều đó toàn hướng về phản Hán phục Việt. Một hôm Sĩ Tứ sai bắt giam hai bà đồng tra tấn bắt phải khai rằng Đô đại vương không linh thiêng gì cả, chẳng qua bọn mưu phản bịa đặt ra mà thôi. Sĩ Tứ nhân đó truyền phá bỏ tượng Đô đại vương, bắt thờ Nhâm Diên. Dân chúng họp nhau làm đơn kêu nài rằng Đô đại vương rất linh thiêng. Sĩ Tứ truyền lệnh rằng : « Cho phép hầu đồng Đô đại vương một lần nữa, rồi cấm hẳn ». Một mặt y chuẩn bị trong lúc Đô đại vương về đồng. Y sẽ bắt ông đồng đánh một trận, chứng tỏ Đô đại vương không nhiều phép tắc bằng y.



Tự-Mai ngừng lại hỏi công tử:



- Thưa công tử. Nếu công tử là dân chúng hồi đó. Công tử sẽ đối phó ra sao?



Công tử cười:



- Anh sẽ phao rằng Đô đại vương bận đi phó hội với vua Bà. Ngài nhập mộng cho biết phải hơn năm sau mới về. Đợi cho Sĩ Tứ phá tượng Đô đại vương thờ Nhâm Diên, rồi bí mật đập tượng Nhâm, nói rằng Đô đại vương sai âm binh đập.



Tự-Mai gật đầu:



- Mưu trí của anh tuyệt vời. Tiếc rằng hồi đó, nghĩa sĩ Nhật-nam lại không làm thế. Vì vậy mới khiến cho hàng ngàn dân chúng chết oan. Đúng ngày dân chúng tổ chức hầu đồng Đô đại vương. Ông đồng vừa ngồi vào chiếu, thì một thiếu niên trợn mắt quát lớn lên rằng : « Ta là Cửu-chân vương Đô-Dương đây. Dù thế nào chăng nữa ta, cũng là Đô đình hầu, tước phong thái thú Phù-phong. Ta cũng đã từng theo vua Quang-Vũ lập đại công. Hà cớ gì thằng ôn con Sĩ Tứ giám phá đền ta? ». Nói rồi nhảy múa lung tung. Sĩ Tứ bật cười cho rằng thằng bé con được người lớn sai ra dọa y. Y không cho binh lính bắt nó, mà chính y nhảy vào túm áo đứa bé. Y dơ tay định tát, ra cái điều y tát cả Đô đại vương. Nào ngờ, thiếu niên chuyển tay một cái phóng chỉ vào giữa trán Sĩ Tứ. Y bị lủng sọ, ngã vật xuống giữa chiếu chết liền. Còn thiếu niên nọ bồi thêm hai chỉ, giết quân hầu rồi phóng mình vào đêm tối.



Bọn trẻ khoái trá reo lên:



- Tuyệt. Hay tuyệt. Con cháu Phù-đổng Thiên-vương mà.



Thiện-Lãm hỏi Thanh-Mai:



- Chị Thanh ơi. Em nghe nói thời Lĩnh-nam, Khất-đại-phu Trần Đại-Sinh với Bắc-bình vương Đào Kỳ đã chế ra chỉ này, với tên là Lĩnh-nam chỉ, có đúng không?