Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 3 : Anh hùng muôn năm cũ

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Anh hùng muôn năm cũ



Thanh-Mai uống một hớp nước trà, rồi tiếp:



- Đêm, quân Cửu-chân thình lình cướp trại. Quân Mê-linh mở tung cửa trại ra. Hai bên cùng nổi lửa đốt trại Hán. Quân Hán tan vỡ. Mã Viện vội vàng lên ngựa bỏ chạy. Chạy tới Linh-trường lại bị trúng phục binh của quốc công Chu Bá. Mã kinh hoảng bỏ chạy thục mạng, chỉ còn một người một ngựa. Tới Kẽm-trống, y ngừng lại để thở, xuống suối vục nước uống. Thình lình có tiếng chân ngựa phi. Y nhìn lên thì thấy Đức-ông. Không còn hồn vía nào nữa. Y nhủi vào bụi rậm trốn. Đức-ông đuổi đến nơi, thấy ngựa Mã, mà không thấy người. Đức-ông cho rằng hắn đã đổi ngựa chạy trốn. Thôi, chị để Tự Mai kể. Chị là con gái kể không được.



Cả bọn trẻ nhao nhao:



- Sao? Tại sao chị kể không được?



Trần Tự-Mai cười lớn:



- Có gì lạ đâu. Đức-ông đuổi Mã lâu qúa. Ngài mắc tè. Ngài vạch quần tè ngay vào bụi cây có Mã Viện núp. Nước tiểu của ngài tưới lên mặt Mã, mà Mã không dám động đậy, cứ phải ngồi im chịu trận. Giữa lúc đó một đạo quân của Phùng Đức kéo đến. Đức-ông lên ngựa bỏ chạy. Bấy giờ Mã mới chui ở bụi rậm ra. Đức-ông tuy bỏ chạy, nhưng còn nhìn về sau, thấy Mã Viện từ trong bụi chui ra. Đức-ông bật cười quay trở lại, hỏi y:



- Phục-ba tướng quân. Thế nào, người uống nước đủ chưa?



Mã Viện tuy đã hoàn hồn. Nhưng chân tay vẫn còn run. Y ra lệnh cho Phùng Đức:



- Phùng tướng quân. Mau giết chết tên Nam man kia cho ta.



Phùng Đức không hiểu gì. Y hỏi lại:



- Thành-Công đã đầu hàng triều đình, lại vô tội. Tại sao đem giết đi?



Mã Viện đã lấy lại được bình tĩnh:



- Nó trá hàng. Vì vậy ta bị bại. Tiền quân tan nát hết rồi.



Phùng Đức chợt hiểu. Y phóng chưởng tấn công đức ông. Phùng là chú, là sư phụ của Phùng Dị. Võ công Phùng Dị vốn cao hơn Đức-ông. Huống hồ sư phụ y. Đấu được hơn 20 chiêu. Đức-ông yếu thế bỏ chạy. Mã Viện xua quân đuổi theo. Đức-ông vừa đánh vừa lui. Khi về đến đây thì kiệt lực. Ngài nằm dài trên mỏm đá mà ngủ. Rồi hóa.



Ông từ giữ đền tiếp:



- Sự thực như thế này. Sau khi Đô đại vương cả phá quân Hán, ra lệnh thu quân. Điểm lại tướng sĩ thấy thiếu Đức-ông. Đại vương cho lệnh quân sĩ tìm Đức-ông. Đức ông có viên tiểu hiệu họ Tôn tên Trung-Thành. Viên tiểu hiệu phi ngựa tìm chúa tướng. Khi ông tới đây thì gặp Đức-ông. Đức-ông mệt quá, chỉ dơ tay ra hiệu, dặn dò đôi truyện rồi hóa. Ông tiểu hiệu đó là tổ tiên chúng tôi.



Sư thái Tịnh Huyền hỏi:



- À thì ra thế. Bần ni có một điều muốn thỉnh. Chẳng hay ông có thể cho biết chăng?



- Xin sư thái cứ dạy.



- Lúc biết vận nước sắp nguy kịch. Vua Bà lệnh cho Bắc-bình vương Đào Kỳ, Tể-tướng Nguyễn Phương-Dung, Đại-tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa họp nhau lại chép tất cả bí quyết võ công các phái Lĩnh Nam thành bộ Lĩnh-nam võ kinh. Lại sai chép tất cả học thuật của phái Sài-sơn như: phép trồng cấy, thiên văn lịch số, cùng bộ Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên. Sau đó sao cho mỗi phái một bản. Bản của phái Sài-sơn, do công chúa Nguyệt-đức giữ, bị cháy trong trận đánh cuối cùng với quân Hán. Bản của phái Long-biên do Tể-tướng Phương-Dung giữ thì trao cho sư đệ Đào Nhị-Gia, đem theo cùng với hai người con của ngài là Đào Tử-Khâm và Đào Tường-Qui. Đào Nhị-Gia tuyệt tích từ sau trận Long-biên. Bản của phái Cửu-chân thì bị thất lạc khi đại tướng quân Trần Dương-Đức tuẫn quốc trong thành Cẩm-khê. Bản của phái Hoa-lư cũng bị thất lạc sau khi chưởng môn là quốc công Cao Cảnh-Sơn tuẫn quốc trận Hát-giang. Chỉ có bản của phái Tản-viên hy vọng còn. Bản này do Đức-ông cất giữ. Không biết khi Đức-ông hóa, thì bản đó còn hay không?



Tôn Đản hỏi:



- Em nghe nói, cuối bộ Lĩnh-Nam vũ kinh còn ghi chú nơi cất dấu hai kho tàng lớn bậc nhất lịch sử cổ kim. Không biết kho tàng, vũ kinh có thực hay không, mà suốt gần nghìn năm nay trong võ lâm nổi lên không biết bao nhiêu phong ba, bão táp. Vùng này khốn khổ vô cùng, người ta đổ xô đến tìm những thứ đó. Chị Thanh-Mai, sự thực ra sao?



- Vũ-kinh đương nhiên có rồi. Còn kho tàng, sử ghi đàng hoàng. Hồi nhà Thương cai trị dân, bốn phương chư hầu tiến cống, châu báu kể sao cho siết. Chu diệt Trụ, kho tàng đó thuộc Chu. Chu phong tám trăm chư hầu. Hàng năm chư hầu tiến cống. Vua Chu cất vào với bảo vật đời Thương. Chu trải tám trăm năm, nhà Chu tích lũy báu vật chư hầu lại cùng với tích kim nhà Thương, biết bao nhiêu mà kể. Tần diệt Chu, lấy kho tàng đó. Tần thanh toán bẩy nước, thống nhất thiên hạ, thu vàng ngọc về tích ở Hàm-đan với kho tàng Thương-Chu thành kho Thương-Chu-Tần. Hán Cao-tổ vào Hàm-dương đầu tiên chiếm trọn vẹn kho tàng Thương-Chu-Tần, đem về chôn ở gầm điện Vị-ương. Các vua Hán đi cướp các nước xung quanh, hợp với kho tàng trên gọi là kho tàng Tần-Hán. Vương Mãng cướp ngôi Hán. Y biết mình không chính nghĩa, khó giữ ngôi vua. Y đào kho tàng Tần-Hán chôn ở hồ Động-đình. Thời Lĩnh-nam, Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật-Nguyệt đem quân đánh Trường-sa, biết nơi dấu kho tàng. Niên hiệu vua Trưng thứ nhất (39 sau TL), ngài sai công chúa Yên-lãng, Nghi Hòa đào lên đem về Giao-chỉ. Khi công chúa Yên-Lãng chở đến Khúc-giang, gặp đoàn cao thủ Mã thái hậu đuổi theo đánh cướp. Công chúa đem chôn cất tại đây.



Tôn Đản chau mày:



- Đây mới là kho thứ nhất. Kho thứ nhì ở đâu?



__ Kho thứ nhì gồm tích sản 88 đời vua Hùng, vua An-Dương và Triệu Đà. Thời Lĩnh-nam, sau trận đánh Bạch-đế, kho tàng này về tay Thiên-ưng lục tướng. Trưng Nhị sai đại tướng Hồ Hác cùng Thiên-ưng lục tướng chôn ở núi Tản-viên. Bản đồ cả hai kho tàng đều chép vào cuối bộ Lĩnh-nam vũ kinh. Hơn nghìn năm qua, võ lâm thi nhau tìm bộ kinh thư này, bởi muốn trở thành anh hùng vô địch cũng có, muốn đoạt hai kho tàng cũng có. Vì vậy phong ba nổi lên không ngừng.



Ghi chú,



Tất cả những biến cố này, tôi đã thuật trong bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử và Cẩm-khê di hận, do Nam-á Paris xuất bản.



Mặt ông từ hiện ra những nét kì dị khó hiểu.



Trời dần về khuya. Ông từ sai vợ thỉnh sư thái Tịnh-Huyền đi ngủ. Tôn Đản cùng các em nhường phòng ngủ của mình cho Thanh-Mai, Tự-Mai. Chúng ngủ ở phòng khách. Tự-Mai nói sẽ vào tai chị:



- Chị Thanh ơi! Em dám qủa quyết bộ Lĩnh-Nam vũ kinh với bộ Dụng-binh yếu chỉ, Đức-ông trao cho tổ tiên ông từ. Hiện ông từ còn lưu giữ. Vì hồi chiều em thấy Tôn Đản xử dung võ công Tản Viên. Về sau đổi sang Cửu- chân, Quách Quỳ mới bị bại.



- Đúng! Em nói đúng. Đối với võ công Lĩnh-nam, thì võ công Tản-viên đứng đầu. Còn đối với võ công Trung-nguyên, bị võ công Cửu-chân khắc chế, nên chỉ vài chiêu Tôn Đản thắng Quách Quỳ.



- Có một điều em không hiểu: Tại sao



ông từ giữ tất cả kho tàng võ công Lĩnh-nam trong tay, mà chỉ dạy Tôn Đản có mấy chiêu. Vì vậy Tôn Đản tuy thắng Quách Quì, mà thắng rất khó khăn!




- Thiền-sư Vạn-Hạnh đồng ý. Ngài cùng Lê Hoàn, Phạm Cự-Lượng bàn định kế sách. Cả ba đồng ý rằng đạo quân châu Ung, Liêm tiến sang là chính binh. Đạo Bạch-đằng là kỳ binh. Vì vậy dùng hai vị sư thái Hoa-Minh, Đàm-Nhẫn theo trợ giúp Phạm Cự-Lượng chặn đạo quân do Tôn Toàn-Hưng, Triệu Phụng-Huân từ châu Liêm tiến sang. Thiền sư Vạn-Hạnh cùng đại hiệp Đặng Đại-Sơn theo trợ giúp Lê Hoàn ngăn đạo quân từ châu Ung tiến sang do Hầu Nhân-Bảo, Trần Khâm-Tộ chỉ huy. Cả hai đạo đánh cầm chừng. Đợi cho thiền sư Lý Khánh-Vân với đại hiệp Trần Trí-Đức diệt xong dạo kỳ binh của Lưu Trừng với Quách Quân-Bảo, rồi sẽ lên tiếp viện với hai đạo trên.



Quách Quỳ gật đầu:



- Thì ra là thế. Khi khởi binh, vua Thái-tông truyền lệnh giữ thực bí mật về kế sách. Dùng thủy-binh làm đạo chính binh, mà không lấy thủy binh ở châu Khâm, châu Liêm, vì sợ bị lộ, mà lấy thủy quân vùng Chương-châu, Tuyền-châu làm như chỉ có bộ binh, kị binh đánh Giao-chỉ, không dùng thủy quân. Không biết bằng cách nào mà bên Đại-việt biết rõ mưu kế của đại Tống. Thì ra tổ tiên tôi bại vì không bảo toàn cơ mật.



Thanh-Mai cười:



- Thủy quân của Lưu Trừng tiến vào sông Bạch-đằng, dự định đánh bọc hậu hai đạo quân Đại-Việt đang nghênh chiến ở vùng Chi-lăng, Đông- triều. Hai đạo quân bị tiền hậu thọ địch, chắc chắn tan vỡ. Hạm đội Tống chờ đêm đến mới tiến vào cửa sông, bất thần đổ bộ, chiếm một lúc năm ải ven sông dễ dàng. Quân Đại-Việt chống đỡ lấy lệ, rồi bỏ chạy. Lưu Trừng mừng rỡ, tưởng rằng kế họach thành công mỹ mãn. Y cho toàn bộ quân sĩ đổ bộ. Người ngựa sau hơn tháng hành trình mệt mỏi, giờ đây tha hồ chạy nhảy cho dãn gân, dãn cốt. Dưới mỗi chiến thuyền chỉ để một hai thủy thủ canh gác. Thình lình nửa đêm, nước chảy siết. Các chiến thuyền bị đứt dây cột trôi về hạ lưu. Lúc đầu Lưu Trừng, Quách Quân-Bảo tưởng thuyền bị đứt dây. Y hô kị mã men theo bờ sông đuổi theo. Đuổi một lúc y mới bật ngửa ra rằng không phải. Vì trên 500 chiến thuyền, « trôi» giữa giòng, chứ không quay tròn, tỏ ra có người lái. Thì ra đại hiệp Trần Trí-Đức đã dùng một đám đệ tử giỏi bơi lội, từ bên kia sông bơi qua, âm thầm leo lên giết chết thủy thủ giữ thuyền, cắt dây, cho thuyền trôi đi. Việc làm êm đềm, thần không biết, quỉ không hay. Khi quân canh trên bờ phát giác ra thì không còn kịp nữa.



Tôn Trọng khoan khoái trong lòng:



- Thế là cánh quân thủy tan vỡ. Vì khi thủy quân đã lên bờ thì không còn uy lực. Hơn nữa, nào lương thảo, nào vũ khí, nào quần áo đều để trên thuyền. Nay thuyền mất, thì không cần đánh, một ngày là phải hàng.



Thanh-Mai tiếp:



- Thế là quân Tống sau hơn tháng trời trên biển mệt mỏi, vừa thiếp đi, lại bị đánh thức dậy. Sáng hôm sau chiến thuyền Tống theo nước thủy triều tiến lên. Trên chiến thuyền kéo cờ Đại-Việt. Quân dân Đại-Việt gươm giáo sáng ngời. Các chiến thuyền bỏ neo ở giữa sông, phất cờ đánh trống. Hễ quân Tống định di chuyển, thì quân Việt lại chèo vào bờ định đổ bộ. Trước hoàn cảnh đó, Lưu Trừng đành cho quân lính đi vào thôn ấp gần đó cướp lương thảo. Không ngờ hết toán này đi, đến toán khác đi đều không thấy trở về. Y nổi giận cho một tướng dẫn hơn ngàn quân đi tìm lương, đến chiều đem về được nào trâu, nào lợn, nào gạo, nào rau. Y truyền quân sĩ giết trâu, mổ lợn nấu cơm ăn. Suốt ngày hôm đó quân Đại-Việt không tấn công. Đêm hôm ấy y truyền quân sĩ không được cởi giáp trụ, thay nhau canh gác. Không ngờ đến sáng, quân Đại-Việt vẫn bất động. Nhưng sáng hôm sau y khám phá ra quân Tống hầu hết bị đau bụng, tiêu chảy. Thì ra đại hiệp Trần Trí-Đức truyền quân sĩ lấy thuốc độc pha trong nước rồi đem rau, đậu nhúng vào, đưa cho quân Tống cướp đi. Chúng ăn phải, bị tháo dạ hết. Bấy giờ quân Đại-Việt mới từ các xóm làng tấn công. Thủy quân đổ bô. Quân Tống không còn sức chiến đấu, đành đầu hàng. Lưu Trừng, Quách Quân-Bảo không chịu đầu hàng. Cả hai nhất quyết cùng các tướng tử chiến. Thiền sư Lý Khánh-Vân không nỡ để các tướng Tống, Việt chết thảm, ngài đề nghị bên Tống cử ra ba người, bên Đại-Việt cử ra ba người đấu. Nếu Tống thắng hai, thì ngài sẽ tha cho các tướng ra về. Còn nếu Việt thắng hai thì, các tướng Tống phải đầu hàng.



Quách Quỳ gật đầu:



- Cô nương thuật đúng. Tổ phụ của tôi đấu với thiền-sư Lý Khánh-Vân. Sau 400 hiệp thì yếu sức, bị bắt. Còn đô đốc Lưu Trừng đấu với Trần Trí-Đức. Trí-Đức dùng một thứ võ công kỳ lạ hơi giống võ công Tiêu-sơn, sau 300 hiệp, Lưu đô đốc cùng với Trí-Đức hòa, vì sức cùng lực kiệt. Lưu đô đốc được thư thả ra về.



Tự-Mai cười:



- Sai rồi. Sau khi đấu được trên trăm chiêu, Lưu Trừng bị bại, cũng bị bắt. Bấy giờ cánh quân của thiền sư Lý Khánh-Vân cùng đại hiệp Trần Trí-Đức dùng chiến thuyền Hán tiến ra khơi, đổ bộ lên Tây-kết tiếp chiến với đạo quân của đại tướng Phạm Cự-Lượng cùng hai vị sư thái Hoa-Minh, Đàm-Nhẫn. Khi hai đạo quân bắt tay được với nhau. Đại-tướng Phạm Cự-Lượng đề nghị tha một số tướng Tống về, để Tôn Toàn-Hưng, Triệu Phụng-Huân biết đạo quân thủy đã tan, thì không cần đánh, đạo này cũng vỡ. Thiền-sư Khánh-Vân đồng ý. Ngài truyền thả Lưu Trừng cùng 20 tướng khác về bên Tống. Quả nhiên Tôn Toàn-Hưng thấy Lưu Trừng cùng các tướng đạo hải quân được tha về hồn phi phách tán. Nửa đêm y truyền lệnh rút quân. Bấy giờ đại tướng Phạm Cự-Lượng mới tung quân đuổi theo. Trận đánh Tây-kết kéo dài hai ngày hai đêm, trên một tuyến hơn 50 đặm. Tôn Toàn-Hưng, Triệu Phụng-Huân bị bắt. Đạo lục quân bị diệt trọn vẹn. Sau khi diệt đạo quân này, đại tướng Phạm Cự-Lượng đem đại quân đánh phía sau, trong khi đạo quân Lê Hoàn đánh phía trước. Giữa trận đại chiến, đại hiệp Trần Trí-Đức giết chết Hầu Nhân-Bảo. Trần Khâm-Tộ chạy thoát về Trung-nguyên.



Tôn Mạnh giật mình hỏi:



- Phải chăng thiền sư Khánh-Vân là sư phụ của đức Thuận-thiên hoàng đế bản triều?



- Đúng đấy.



Tôn Đản nhắc Quách Quỳ:



- Thôi chúng ta ngừng nói truyện xưa ở đây. Quách công tử, người cho chúng tôi biết tại sao người lại sang Đại-Việt. Những người đi với công tử là ai vậy?



Quách Quỳ thở đài:



- Kể từ khi đức Thái-tổ khải-vận lập cực anh võ duệ văn thần đức thánh công chí minh đại hiếu hoàng đế lập ra Đại-tống. Tiếp theo đức Thái-tông thần công thánh đức văn võ hoàng đế kiến tạo sự nghiệp, trước diệt bọn ngụy Bắc-hán, Nam-Đường, sau chinh phục man di, hiển hách vô cùng. Nào ngờ, đến nay bị bốn phương uy hiếp. Sĩ dân thiên hạ cùng cảm thấy cay đắng.



Y ngừng lại một lúc rồi tiếp:



- Cách đây ba năm. Phương-trượng chùa Thiếu-lâm là Thanh-Lạc đại sư cùng với chưởng môn nhân các đại môn phái có sáng kiến tổ chức đại hội anh hùng hầu tìm lấy phương sách cứu nước. Sau 10 ngày bàn luận, không ai tìm ra đựơc điều gì. Cuối cùng nghị hội kết luận rằng sở dĩ các nước Liêu, Tây-Hạ, Đại-lý hùng mạnh vì vua, tôi một lòng. Còn nhà Đại-Tống trong thì vua hôn ám, đại thần chỉ biết hối lộ, đầu hàng Liêu. Tướng sĩ ngoài biên cương không biết mình chiến đấu cho ai? Chiến đấu rồi cũng đến chết uổng mà thôi. Trong khi quần hào thất vọng thì một vị đại hiệp cụt tay phải tên Triệu Thông đứng lên phát biểu ý kiến.



Thanh-Mai hỏi:



- Có phải Triệu Thông xuất thân phái Võ-đang không?



- Vâng! Sao cô nương biết? Triệu đại hiệp kiếm pháp thần thông thuộc phái Võ-đang. Hồi tòng quân giữ chức Chinh-di đại tướng quân. Trong lần trấn giữ thành Ung bị quân Đại-Việt tiến đánh, mất một cánh tay. Vì vậy sĩ dân đều kính trọng.



Tôn Trung-Luận hỏi Thanh-Mai:



- Cô nương! Làm gì có truyện đó?



Thanh-Mai tính đốt ngón tay:



- Có, nhất định có. Việc này vang lừng thiên hạ. Trong lúc trấn thủ Ung thêm Giác-Minh thiền sư, thủ tọa Đạt-Ma đường chùa Thiếu-lâm, cùng với Duyên-Hoa sư thái của phái Nga-mi. Cả ba đại cao thủ cùng bị các cao thủ Đại-Việt đánh bại.



Tự Mai vỗ tay reo:



- Em nhớ ra rồi. Việc này xảy ra vào niên hiệu Thuận-Thiên năm thứ 13 bản triều. Bấy gìơ bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Càn-hưng nguyên niên đời vua Tống Chân-tông (1022, Nhâm-Tuất) mới cách đây mấy năm. Bấy giờ bọn quan trấn thủ biên giới Tống là Đại Nguyên-Lịch thường thả quân tràn qua biên giới cướp bóc, giết hại dân vô tội. Vua sai em là Dực-thánh vương đem quân phòng thủ. Đại Nguyên-Lịch quen thói cũ cho quân cướp phá. Dực-thánh vương phản công, đuổi tràn qua đất Tống đến chân thành Ung. Sự việc này trùng hợp với việc đại hội võ lâm Lĩnh-nam. Nguyên từ thời vua Ngô Quyền, các võ phái Lĩnh-nam ấn định mỗi năm đại hội mỗt lần, để chư đệ tử hiểu nhau, hầu tránh đụng chạm. Trong 7 môn phái, cứ mỗi môn phái đứng ra tổ chức một kỳ. Năm đó đến lượt phái Tây-vu tổ chức. Chưởng môn phái Tây-vu là phò-mã Thân Thừa-Quý đứng ra triệu tập. Nơi đại hội là châu Quảng-nguyên. Châu Quảng-nguyên giáp giới với Trung-Nguyên. Võ lâm Trung-nguyên cho rằng Đại Việt định đem quân tấn công. Họ cũng tổ chức đại-hội ở Ung-châu đề phòng. Gữa lúc đó, đoàn quân Tống trấn giữ biên cương tràn sang cướp phá. Võ lâm Đại-Việt, trợ giúp quân của Dực-thánh vương, vượt biên giới đuổi theo tới thành Ung-châu. Võ lâm Trung-nguyên xuất thành bên quân Tống. Vì vậy xẩy ra cuộc huyết chiến.



Tôn Trung-Luận hỏi:



- Cuộc chiến diễn ra như thế nào?



Tự-Mai khoan thai kể: