Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 7 : Thiền công việt , hoa

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Thiền công Việt , Hoa



Sư thái Tịnh-Huyền đến bên Lý Long. Bà cầm lấy tay chàng xem xét qua rồi nói sẻ:



- Không sao. Thí chủ an tâm. Độc chất này không làm hại được thí chủ đâu. Trong một vài giờ nữa mới nguy kịch. Thí chủ cảm thấy thế nào?



Lý Long bình tĩnh:



- Đa tạ sư thái. Tiểu bối chỉ cảm thấy ngứa ngáy khó chịu thôi.



Tịnh-Huyền ghé tai chàng:



- Thí chủ nạp khí vào trung đơn điền. Sau đó thổ khí truyền từ phế vào Thủ-thái-âm phế kinh rồi dẫn khí tới huyệt Liệt-khuyết, chuyển sang Thủ dương-minh đại trường kinh. Cái ngứa ngáy tự nhiên hết.



Bà nói đến đâu, Lý Long vận chân khí theo đến đó. Bàn tay chàng tiết ra mùi tanh hôi nồng nặc, cực kỳ khó chịu. Cảm giác ngứa ngáy, đau nhức theo chất độc mà giảm dần. Sau khi thổ nạp trên mười tức, chàng cảm thấy nhẹ nhàng. Sư thái Tịnh-Huyền sẽ để bàn tay lên lưng Lý Long. Một kình lực nhu hòa êm dịu truyền khắp người chàng. Mồ hôi phát ra như tắm. Chàng cảm thấy khoan khóai không bút nào tả siết. Sư thái Tịnh-Huyền nói sẽ vào tai chàng bằng giọng ôn nhu như mẹ hiền nói với con:



- Nguy nan qua rồi. Con hãy đứng dậy.



Chàng ung dung đến đối diện với bọn Vương Duy-Chính. Tự-Mai thấy anh bị hại. Nó lườm lừơm nhìn tên mặt lưỡi cầy:



- Bọn mi là người Hán, sang Đại-Việt ta làm truyện đạo tặc, lại còn bang bạnh, dùng sức áp chế người ư?



Vương Duy-Chính quát lớn:



- Mi có biết chủ nhân ta là ai không, mà mi dám hỗn láo?



Trần Tự-Mai là đệ tử danh gia. Tuy nhỏ tuổi, nhưng nó có cái học rất uyên thâm về luật lệ, về đạo lý, về văn chương. Nó hứơng vào Vương Duy-Chính hỏi:



- Vương tiên sinh. Tiên sinh đã từng đỗ tiến-sĩ, hẳn phải biết nhà có chủ. Đất có vua. Trung-quốc có vua Tống. Liêu có vua Liêu. Đại-Việt tôi có hoàng đế, có luật lệ. Luật Đại-Việt định rằng, bất cứ người ngoại quốc nào, muốn vào trong nứơc phải có thẻ bài nhập cảnh. Thấy tiên sinh cùng các bạn là người Hán. Anh cả tôi lễ phép hỏi thẻ bài để phân biệt người ngay với kẻ gian. Thế mà chủ nhân của tiên sinh lại dùng dộc chất hại anh tôi là đạo lý gì vậy?



Thấy bọn chúng im lặng, nó tiếp:



- Kinh tởm hơn nữa độc chất các vị dùng là của bọn Hồng-thiết giáo, một giáo phái qui tụ những kẻ vong mạng, trộm cướp, điên khùng, khắp nước tôi đều muốn tru diệt.



Nó chỉ vào bọn Triệu Anh:



- Huống hồ những người này, hôm qua đột nhập vào đền thờ anh hùng nước tôi ăn trộm. Quách Quỳ đã bị giải lên quan.



Quách Quỳ cười:



- Quan của bọn mi không giám giữ ta. Y còn phải lậy chủ nhân ta về cái tội mi bắt trói ta nữa. Mi không tin ư. Mi cứ về hỏi bọn quan của mi thì biết. Ta nói cho mi rõ, tất cả đất nước này đều thuộc sở hữu chủ của chúng ta. Cho nên chủ nhân ta không cần cái thẻ bài chó má của bọn Việt nhà mi.



Chỉ thấy thấp thoáng bóng xanh, tiếp theo hai tiếng bốp, bốp. Quách Quỳ bị Thanh-Mai tát cho hai cái nảy lửa. Nó bưng mặt lùi lại. Thanh-Mai mắng:



- Này Quách công tử. Hôm qua, em ta bắt đựơc công tử vào đền thờ Đức Ông ăn trộm. Giá như chúng ta cho công tử một nhát dao, rồi báo quan, thì liệu cái tính mệnh công tử có còn không? Lại như vừa rồi, nếu ta lấy tính mệnh công tử, thì giờ này công tử chỉ còn là cái xác không hồn. Công tử nhục mạ giòng giống Việt của chúng ta là chó. Nếu ta nhục mạ giòng giống Hán của công tử như vậy, công tử có chịu không?



Nho sinh hướng vào Nùng-Sơn tử:



- Lão đạo sĩ kia. Người có mau thả Triệu Anh ra, rồi xin lỗi y ngay không. Nếu chậm trễ tính mệnh tên chủ nhân của mi nguy trong chốc lát. Vì y bị trúng độc. Còn bọn mi sẽ không có đất mà chôn.



Hà Thiện-Lãm quát lên:



- Không bao giờ. Không bao giờ thả bọn ăn trộm. Các người có bản lĩnh gì thì cứ dở ra.



Tên mặt lưỡi cầy hướng Thanh-Mai:



- Trần cô nương. Tại hạ chỉ muốn đối thoại với cô nương thôi. Để giữ hòa khí giữa hai bên. Mong cô nương thả Triệu Anh ra. Chúng ta cùng cười xòa một tiếng, rồi bỏ qua hết. Cô nương nghĩ sao?



Thanh-Mai liếc nhìn Nùng-Sơn tử, rồi đáp:



- Cũng được. Song công tử phải trao thuốc giải cho anh cả tiểu nữ trước đã. Này công tử, người vẫn chưa cho chúng tôi biết cao danh quí tính đấy.



Gã mặt lưỡi cày hướng vào Vương Duy-Chính:



- Người cho cô nương biết ta là ai đi.



Vương Duy-Chính rút trong bọc ra một cuộn giấy, đưa cho Thanh-Mai:



- Trần cô nương. Cô nương cứ mở ra đọc sẽ biết chủ nhân tôi là ai?



Thanh-Mai định tiếp cuộn giấy, thì Tự-Mai la lớn:



- Chị Thanh, cẩn thận, coi chừng trúng độc.



Gã mặt lưỡi cầy cười:



- Cậu em ơi. Sao cậu đần lắm vậy. Chị cậu là trang quốc sắc thiên hương, dù kẻ ngu phu ngu phụ trông thấy, hồn phách cũng bay phơi phới. Huống hồ bọn ta? Vương tiên sinh là văn nhân, đỗ tiến-sĩ, đời nào nỡ hại chị cậu. Hơn nữa, Vương tiên sinh là người theo hầu ta. Chị cậu đã lọt mắt ta. Tiên sinh có gan bằng trời cũng không giám với vô phép với nàng.



Thanh-Mai mở trục giấy ra. Hai bên vẽ hai con rồng bằng thiếp vàng lóng lánh. Hai con rồng chầu vào nhau trong tư thế tranh viên ngọc đỏ chói. Dưới có hàng chữ :



Thừa thiên hưng vận, Thiên-thánh hoàng đế (1) chỉ dụ chọ hoàng thúc là Bình-nam vương Triệu Thành, lĩnh phụ quốc thái úy thay mặt trẫm kinh lý các vùng Mân-Quảng để phủ dụ khê động, man di. Bách quan văn võ phải nhất nhất tuân lệnh điều động.



Ghi chú,



(1) Thoát-Thoát, Tống-sử, quyển 9-10-11-12, Nhân-tông bản kỷ, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1977, trang 175-253: Thiên-thánh, niên hiệu của vua Nhân-tông nhà Tống gồm tám năm (1023-1030). Sau khi chết, vua Nhân-tông được suy tôn là Nhân-tông, thể thiên pháp đạo, cực công toàn đức, thần văn thánh vũ, duệ triết, minh hiếu hoàng đế



Thanh-Mai cười nhạt:



- Thì ra Bình-nam vương nhà Đại-Tống giá lâm Đại-Việt. Này vương gia. Trong chiếu chỉ hoàng đế Đại-Tống ủy thác cho vương gia kinh lý Mân, Việt. Tại sao vương gia lại vào Đại-Việt của chúng tôi.



Triệu Thành cười:



- Trong chiếu chỉ nói rõ phủ dụ khê động, man di. Giao-chỉ là đất man di. Nên cô-gia phải lặn lội sang, hầu đạy dỗ. Vua đất Giao-chỉ của cô nương là Lý Công-Uẩn được bản triều phong tước Giao-chỉ quận-vương. Lãnh địa Giao-chỉ chẳng qua là một quận của thiên tử. Cô-gia đường đường là Thái-úy phụ quốc. Cô gia phải đến tra xét, thì có chi là lạ. Cô nương nên biết cô gia không chỉ giữ chức Phụ- quốc thái úy.



Nghe Triệu Thành nói, Lý Long tỉnh ngộ. Chàng chửi thầm:



- Hôm trước được tin tin báo Phụ-quốc thái úy, hoàng thúc của vua Tống mượn đường Đại-Việt, cầm đầu sứ đoàn sang Chiêm. Ta cứ tự hỏi nước Chiêm nhỏ bé. Xưa nay Tống chỉ cử chức quan ở biên giới Hoa-Việt đi là đủ. Nay sao có sự lạ đời như vậy. Thì ra đi sứ chẳng qua là lá chắn bề ngoài. Bên trong còn nhiều việc trọng đại nữa.



Minh-Thiên đại sư dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai chàng:



- Chủ nhân phải cẩn thận. Tên Triệu Thành là nhân vật kiệt hiệt bậc nhất Tống triều. Mưu trí của y hiếm ai theo kịp. Y lại là người tinh minh mẫn cán, biết thu phục nhân tâm. Y sang đây với niềm kiêu hãnh. Ta hãy làm như không biết y là ai gây cho y một ít thất bại. Khi y hết kiêu hãnh, ta tìm cách đưa y lên. Như vậy y thành bạn của ta. Y đã thân Đại-Việt, ít ra ta có mươi năm thanh bình. Sau mươi năm, dân ta giầu, binh ta mạnh. Ta không sợ Tống nữa.



Lý Long dùng lăng không truyền ngữ nói vào tai Thanh-Mai:



- Tam muội! Phải cẩn thận. Khi chưa có ý kiến của anh, tuyệt đối không nên khinh thường bọn này. Tam muội hãy nhắc lại nguyên văn những gì anh nói vào tai tam muội để đưa bọn này vào bẫy.



Rồi chàng rót vào tai Thanh-Mai.



Thanh-Mai thản nhiên:



- Rừng nào, cọp ấy. Giang sơn nào, anh hùng ấy. Tiểu nữ biết vương gia còn nhận nhiều chức tướng khác, kể ra dài đến trăm chữ.



Triệu Thành tươi nét mặt:



- Nếu cô nương nói được rõ cô gia là ai. Cô gia xin cúi đầu tôn cô nương làm sư mẫu.



Thanh-Mai hướng vào Minh-Thiên, Vương Duy-Chính:




- Tại hạ hiểu rồi. Chắc trước đây có người Việt nào đó học lén võ công Thiếu-lâm rồi về thêm thắt đôi chút vào, thành Tiêu-sơn chưởng pháp. Giản dị quá.



Thanh-Mai cười nhạt:



- Vương tiên sinh! Tiên sinh nên biết rằng ở đây lực lượng chúng tôi mạnh hơn tiên sinh. Triệu Anh lại bị bắt. Tiên sinh cần liệu lời mà nói, mới hy vọng trở về Trung-thổ. Chứ tiên sinh cứ cái giọng miệt thị người Việt như vậy, anh cả chúng tôi có đại lượng mấy cũng không tha cho các vị đâu.



Vương Duy-Chính nghĩ rất nhanh. Nếu động thủ ra, thì Minh-Thiên khó thắng được sư thái Tịnh-Huyền. Y không thể địch nổi Nùng-Sơn tử. Còn lại Ngô Tích, Triệu Huy càng không phải đối thủ của Thanh-Mai, Lý Long. Trong khi đó còn Huệ-Sinh, Tạ Sơn. Y chữa:



- Nếu không phải vậy, thì sao hai thứ võ công giống nhau đến thế?



Sư thái Tịnh-Huyền lên tiếng:



- Để bần ni giải thích cho Vương thí chủ rõ. Võ công của Thiếu-lâm phát xuất từ Thiền-công nhà Phật. Trong khi võ công Tiêu-sơn cũng phát xuất từ nhà Phật, thì giống nhau là sự thường.



Vương Duy-Chính lắc đầu:



- Không phải. Võ công Thiếu-lâm phát xuất từ Đạt-Ma tổ sư. Ngài đến Tung-sơn, diện bích chín năm, rồi đắc đạo. Ngài truyền thụ Thiền công cho đệ tử. Từ đó Thiền công truyền sang Giao-chỉ. Chính sử sách quý quốc còn ghi.



Thanh-Mai thắc mắc:



- Xin tiên sinh dạy cho tiểu nữ biết đó là sử nào, sách nào?



Vương Duy-Chính gật đầu:



- Dường như qúi quốc có một thiền sư pháp danh La Quí-An ,được phong quốc sư. La Qúi-An đại sư đã vân du Trung-nguyên, hành hương chùa Thiếu-lâm, để lại một bài ký mang tên « Đăng Tung-sơn, du Thiếu-lâm ký ». Bài ký này văn chương uẩn súc. Khắp Trung-nguyên đều truyền tụng. Tại hạ vì hâm mộ, đọc nhiều lần nên cũng thuộc. Trong bài ký trên, đại sư La Quý-An khẳng định rằng Thiền-tông Đại-Việt xuất phát từ Thiền-tông Trung-nguyên. Tại hạ xin đọc nguyên văn để cô nương nghe.



Vương Duy-Chính cất cao giọng đọc. Bài ký viết bằng Hán văn. Thiện-Lãm ít học, không hiểu. Nó hỏi Tự-Mai:



- Này anh Sáu. Nó đọc gì mà ộp ạp như ếch kêu vậy.



Tự-Mai ghé vào tai Lãm dịch cho nó nghe:



« ...Bồ-tát Tỳ-ni-đa Lưu-chi được truyền pháp từ tam tổ Tăng Sán, đến Đại-Việt hoằng dương đạo đức Thế-tôn, đến nay trải đã mấy trăm năm.. »



Vương Duy-Chính ngừng lại cười:



- Cô nương, điều này có thực chăng?



Thanh-Mai ngơ ngác đưa mắt hỏi ý kiến sư phụ. Tịnh-Huyền định lên tiếng thì, Tự-Mai xua tay:



- Vương tiên sinh ơi, tại hạ còn nhỏ tuổi, phải xin lỗi tiên sinh trước khi trả lời câu hỏi trên. Chết thật, tiên sinh nổi tiếng văn tự uyên bác, mà lại lầm lẫn đến thế ư. Tiên sinh cần phải phân biệt Thiền-học với Thiền-công không phải là một. Thiền-học cực kỳ cao qúy, đưa đến giải thoát con người khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử. Còn Thiền-công là luyện nội lực, hầu áp dụng vào việc xử dụng võ công. Để tại hạ nói cho tiên sinh rõ hơn một chút. Như chị em tại hạ đây đều là đệ tử phái Đông-a. Học võ công Đông-a.



Nghe nói đến chữ Đông-a mặt Triệu Thành nhăn nhó lại thực khó coi, y đưa mắt nhìn Minh-Thiên. Cả hai im lặng nghe Tự-Mai nói.



Nó chỉ vào Tịnh-Huyền:



- Trong khi đó chị em tại hạ lại xin qui y Tam-bảo với người. Tuy người là cao nhân phái Mê-Linh, nhưng người chỉ đạy chị em tại hạ về Thiền- học cao quí mà thôi. Bồ-tát Tỳ-ni-đa Lư-chi được tổ Tăng Sán truyền pháp là điều đương nhiên, quý báu không gì sánh. Chứ tổ Tăng Sán không truyền Thiền-công chẳng lấy gì làm quý cho ngài.



Vương Duy-Chính ngắt lời Tự-Mai:



- Này em bé. Thiền-công của nhà Phật quí biết dường nào. Thế mà em bảo chẳng lấy gì làm quí, chẳng hóa ra khinh mạn thái quá ư?



Tự-Mai cười nhạt:



- Vương tiên sinh lại lầm lẫn nữa rồi. Trong Phật giáo, thì không gì quí báu bằng pháp. Pháp tức là triết lý đi đến giải thóat cho mình, cho người, cho chúng sinh. Còn Thiền-công bất qúa là phương tiện giúp cho phật tử luyện tập cơ thể khỏe mạnh, hầu tránh ma nghiệp từ muôn kiếp trước đến quấy nhiễu mà thôi. Thiền-công thì nhất thời. Còn pháp môn Thiền-học thì không có đầu, cũng không có cuối. Bất diệt, bất cải. Thế thì không qúi sao được???



Tự-Mai nói đến đâu thì Minh-Thiên, Tịnh-Huyền gật đầu đến đó. Trong khi từ Vương Duy-Chính cho đến Quách Quỳ ngơ ngơ ngác ngác. Tự-Mai thở dài:



- Thôi được, tại hạ xin vì Vương tiên sinh mà nói về nguồn gốc Thiền-tông của Trung-quốc, Đại-Việt vậy. Không biết tiên sinh có nghe không?



Vương Duy-Chính định lắc đầu, thì gã mặt lưỡi cầy đã cướp lời:



- Nghe, nghe. Em bé, thực em không hổ là đệ tử danh gia. Chẳng điều gì mà không biết.



Tự-Mai chắp tay kính cẩn nói:



- Đầu tiên tại hạ xin nói về nguồn gốc dòng Thiền tông ở Tây-trúc. Đạo Phật có vô tận pháp môn. Các pháp môn coi thì nhiều, song thu về chỉ có một mối. Người tu học cao như Minh-Thiên đại sư hoặc sư phụ của tại hạ thuyết pháp thì lại không qúi bằng kẻ thô lỗ vô học. Thiền-tông ra đời từ khi Phật còn tại thế. Thiền-sử kể rằng: « Một ngày Phật Thích-ca Mâu-ni lên tòa thuyết pháp ở Linh-sơn. Đức Phật im lặng không nói gì. Ngài cầm một bông hoa đưa ra trước pháp hội cho mọi người xem. Lúc ấy thính chúng đông hàng mấy trăm vạn. Song đều ngơ ngác không ai hiểu ý Phật. Chỉ có Ma-ha Ca-diếp hiểu. Ông mỉm cười đáp lại. Đức Phật nói: « Ta có nhãn tàng chính pháp, diệu tâm bồ đề, vô thực vô tướng. Nay truyền cho Ma-ha Ca-diếp ». Đó là cuộc truyền tâm ấn đầu tiên. Từ đấy Thiền-tông do thầy truyền cho trò cho đến nay. Thiền-tông không thuyết pháp. Người tu theo Thiền phải trực chỉ chân tâm. Muốn trực chỉ chân tâm, cần hiểu yếu chỉ kinh Kim-cương, kinh Lăng-gìa. Giáo lý Thiền-tông thu vào mấy câu sau:



Giáo ngọai biệt truyền.



Bất lập văn tự.



Trực chỉ chân tâm,



Kiến tính thành Phật.



Tự-Mai nhìn Minh-Thiên:



- Chính vì vậy mà Minh-Thiên thiền sư cũng như bổn sư tại hạ đều thuộc nằm lòng hai kinh Lăng-gìa, Kim-cương, coi việc luyện võ chẳng qua để đuổi ma nghiệp khỏi cơ thể mà thôi.



Triệu Huy hỏi Tự-Mai:



- Này cậu em. Cậu để Minh-Thiên thiền sư lên trên sư phụ mình phải chăng vì gốc Thiền-tông Giao-chỉ từ Trung- quốc?



Tự- Mai lắc đầu:



- Những vị tu hành chân chính thì tứ đại giai không. Minh-Thiên cũng thế. Cục phân bò cũng vậy. Tịnh-Huyền so với con chó, con mèo cũng như nhau.



Ngô Tích quát lên:



- Thằng Tự-Mai kia. Mày thực vô lễ. Mày gọi sư phụ mày là chó, là mèo, mặc mày. Bộ mày không muốn sống nữa hay sao mà giám ví sư bá của tao với cục phân?



Trong khi chị em Tự-Mai cười khúc khích, thì Minh-Thiên phất tay ra hiệu cho Ngô Tích im lặng:



- Sư điệt, con lầm rồi. Tiểu thí chủ đây nói đúng đó. Phật pháp cao siêu không cùng. Bỏ ra ngòai cái ta thì tự nhiên chẳng còn cái người. Đã không có cái người thì không có nhiều người. Không có nhiều người thì tất cả trở thành không. Sư thúc là không. Cục phân cũng là không. Sư thúc quả không quý hơn cục phân.



Tự-Mai tiếp:



- Giòng Thiền-tông truyền ở Thiên-trúc, trải tám đời. Vị tổ thứ tám là Tôn-gỉa Nan-đà đến Đại-Việt. Bấy giờ gọi là Lĩnh-nam.



Minh-Thiên cắt ngang:



- Tiểu thí chủ có lầm không? Vị tổ thứ hai mươi tám là Đạt-Ma Tổ sư đến Trung thổ đầu tiên chứ?



Tự-Mai quả quyết:



- Bạch đại sư, tiểu bối nói có sách. Mách có chứng đàng hoàng. Phía Nam hồ Động-đình có hai ngôi chùa. Một tên Kiến-pháp, một tên Linh-sơn. Hai ngôi chùa này xây từ đời Tam-quốc. Có đúng không?



- Đúng.



- Trước mỗi ngôi chùa đều có tấm bia. Tấm bia ở chùa Kiến-pháp do Tư-mã Trường-sa sọan năm Trinh-phù thứ mười lăm đời vua Đừơng Thái-tông (641 sau Tây lịch). Tấm bia ở chùa Linh-sơn do Hàn lâm đại học sĩ Chu Anh sọan năm Thái-bình Hưng-quốc thứ mười đời vua Thái-tông nhà Tống. Trong hai ngôi chùa đều thờ nữ vương Phật-Nguyệt. Cả hai tấm bia cùng nói rằng nữ vương được Tôn-gỉa Nan-đà truyền tâm ấn, đắc pháp thành Phật. Mà nữ vương Phật-Nguyệt nguyên là tướng tổng trấn Trường-sa, hồ Động-đình hồi vua Trưng. Văn bia nói rõ nữ vương đựơc truyền tâm ấn niên hiệu Kiến-vũ thứ mười sáu đời vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán. So với Lĩnh- nam năm đó là niên hiệu Trưng hoàng (39 sau Tây-lịch) đế nguyên niên. Vậy kết lại Thiền-tông, Thiền-công truyền vào Đại-Việt cách nay là chín trăm chín mươi năm.



Tự-Mai nhìn Triệu Thành,mỉm cười:



- Còn Đạt-Ma tổ sư, thuộc thế hệ thứ hai mươi tám giòng Thiền-tông Tây-trúc. Ngài đến Trung thổ năm Canh-Tý, nhằm niên hiệu Phổ-thông nguyên niên, đời vua Lương Vũ-Đế (520 sau Tây lịch). Như vậy ngài tới sau Tôn-gỉa Nan-Đà đến hơn bốn trăm tám mươi mốt năm. Như thế có nghĩa là Thiền-tông, Thiền-công Đại-Việt có trước Trung-nguyên gần năm trăm năm. Còn Đạt-Ma tổ sư, trước khi đến Trung-thổ, ngài đã đến Đại-Việt trước. Điều này có chép trong « Cao tăng truyện » do chính văn gia đời Tống Thái-tông sọan. Trong đó ghi rõ «Sơ tiên Tống cảnh Nam Việt. Mạt hựu tỷ độ chí Ngụy » nghĩa là đầu tiên đến Nam-Việt thuộc nhà Tống, sau đó mới tới nước Ngụy. Bởi bấy giờ đất Việt thuộc Tống.