Anh Hùng Tiêu Sơn

Chương 8 : Thuận thiên hoàng đế

Ngày đăng: 12:10 18/04/20


Thuận Thiên Hoàng Đế -



Tôn Đản hỏi:



- Còn phái Mê-Linh thành lập từ bao gìơ?



- Sau khi vua Bà tuẫn quốc. Mã Viện biết rằng muốn Lĩnh-nam yên, cần tiêu diệt các phái võ. Một mặt y tróc nã các cao thủ, cấm dạy võ. Một mặt y ra lệnh thu hết sách vở viết bằng chữ Khoa-đẩu đem về Trung-nguyên. Song các tôn sư võ học vẫn ẩn thân, chép bí quyết võ học, để lại cho con cháu. Y tấu về xin chỉ dụ của vua Quang-Vũ nhà Hán ra lệnh cấm học chữ Khoa-đẩu. Như vậy đừng nói võ học, đến tư tưởng, học thuật mấy ngàn năm của Lĩnh- nam nếu có còn gĩư được trong các sách vở cũng vô ích. Vì không ai đọc đựơc. Tuy vậy các phái vẫn bí mật truyền thụ nhận đệ tử. Cho nên đến thời Tam-quốc, bà Triệu thuộc phái Long-Biên khởi binh một lần nữa.



Lê Thuận-Tông cắt lời Thanh-Mai:



- Em nghe vua Lý Nam-đế cũng thuộc phái Cửu-chân, có phải không? Còn Dương Diên-Nghệ, Ngô Quyền thuộc phái nào?



- Đúng. Lý Nam-Đế thuộc phái Cửu-chân, vì vậy khi lên ngôi ngài phong tặng cho bà Triệu là Lĩnh-nam đệ tam thánh. Vì đệ nhất thánh là vua Trưng. Đệ nhị thánh là Trưng Nhị. Bà là đệ tam thánh đất Lĩnh-nam. Còn Dương Diên-Nghệ thuộc phái Cửu-chân. Ngô Quyền là con rể, cũng là đệ tử Dương Diên-Nghệ.



Thiện-Lãm bàn:



- Chị Thanh để em bàn xem có đúng không nghe. Sau này Đinh Tiên-Hoàng chắc chắn thuộc phái Hoa-Lư. Thập đạo tướng quân của ngài là Lê-Hoàn thuộc phái Tiêu-Sơn. Thế phái Mê-linh được thành lập từ bao gìơ?



- Vào năm Mậu-thìn, niên hiệu Đinh Tiên-Hòang đế nguyên niên (968). Bấy giờ võ lâm Lĩnh-nam phân hóa cùng cực. Trong nước chia thành mười hai sứ quân, mang quân đánh lẫn nhau. Các đại tôn sư người theo sứ quân này. Kẻ theo sứ quân nọ, tàn sát nhau khủng khiếp. Chưởng môn nhân phái Long-biên là Hoa-Minh thần ni. Ngài mời tôn sư bẩy đại môn phái thời Lĩnh-nam tới họp. Trong đại hội, luận bàn xem sứ quân nào có đức độ nhất thì giúp, hầu thống nhất thiên hạ. Các đại tôn sư đều đồng ý giúp sứ quân Đinh Bộ-Lĩnh. Vì ngài là chưởng môn phái Hoa-Lư. Sau khi thống nhất đất nước. Các phái Tản-viên, Hoa-lư, Sài-sơn vẫn giữ nguyên. Còn hai phái Cửu-chân, Long-biên, đều đồng ý hợp nhất thành một phái, lấy tên thủ đô thời Lĩnh-nam là Mê-linh cho môn phái mới.



Thanh-Mai nói đến đâu, Tôn Đản gật đầu tỏ vẻ hiểu biết tới đó. Nó hỏi:



- Cứ như cuộc luận bàn hồi nãy gữa người Tống với chúng mình, thì dường như phái Tiêu-sơn thành lập từ khi Bồ-tát Tỳ-ni-đa Lưu-chi sang ta. Còn phái Đông-a thì do phái Tiêu-sơn mà ra. Em nghe, đức hoàng-đế bản triều họ Lý, húy Công-Uẩn, xuất thân phái Tiêu-sơn. Vì vậy suốt trong thời gian qua, vị chưởng môn phái Tiêu-sơn trở thành quốc sư. Có đúng không?



Thanh-Mai gật đầu. Tự-Mai hỏi Lý-Long:



- Anh cả này. Hiện nay võ học Đại-Việt đang thịnh. Trong khi đó bên Tống vua thì hôn ám. Quan lại hèn hạ, nhũng lạm. Dân chúng đói khổ. Bắc có nước Liêu. Tây có Tây-hạ. Nam có Thổ-Phồn. Tại sao mình không họp nhau với Chân-lạp, Xiêm-la, Đại-lý, Chiêm, Lào, thống nhất đem quân hội với Liêu, Tây-hạ, diệt Tống chiếm lại đất Quảng-đông, Quảng-tây cũ? Tại sao mình cứ phải cúi đầu thần phục bọn hèn nhà Tống? Để thỉnh thoảng nó sai mấy tên ngu muội sang phong chức này, tước nọ? Mỗi khi đọc sử đến giai đọan công chúa Gia-hưng Trần Quốc định đem quân chiếm Lạc- dương, lật đổ nhà Hán, em lại tiếc hùi, tiếc hụi. Giá hồi ấy vua Trưng truyền lệnh cho công chúa Phật-Nguyệt vượt Trường-giang theo ngả Kinh-châu đánh về Lạc-dương. Như vậy ắt Ngô-Hán phải rút quân từ Thục về cứu viện. Công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa tái chiếm Thành-đô, Lưỡng Xuyên... không chừng thành công.



Tự-Mai mơ màng:



- Lại như thời vua Lê Đại-Hành, quân Tống hùng hùng, hổ hổ sang đánh, thế mà cũng chỉ ba trận, trên hai mươi vạn người bỏ xác. Anh cả ơi, chúng mình là con rồng cháu tiên, không tham vọng chiếm đất của người Hán. Song mình cũng cần đòi lại đất tổ. Em nghĩ, nhất định anh cả với chúng em phải làm việc đó.



Lý Long chắp tay hướng Thanh-Mai, Tự-Mai:



- Đa tạ các em dạy dỗ. Chí của các em lớn thực. Các em không thua gì vua Trưng, hay Bắc-bình vương Đào Kỳ khi xưa.



Nói rồi chàng ôm lấy đầu Trần Tự-Mai. Hai



anh em lặng đi giờ lâu. Tự-Mai hỏi:



- Liệu trong triều, đức hoàng đế cùng triều thần có nghĩ như anh em mình không?



Lý Long không trả lời. Chàng xuất thần nhìn lên mặt trăng, mơ mơ, màng màng.



Sư thái Tịnh-Huyền gật đầu:



- Có đấy con ạ. Song không phải ai cũng muốn làm anh hùng.



Bà ngửa mặt nhìn trăng nói với Lý Long:



- Cứ như bần ni xét, thì bản triều tuy mới lập chính thống, nay nảy ra được một thiếu niên khí hùng, trí dũng. Lại biết khuất thân cầu hiền tài. Một hai mưu khôi phục cố thổ. Nhân sĩ, võ lâm không ai mà không phục. Song bần ni lấy làm lo nghĩ, vì triều đình bây giờ không phải như triều đình thời Lĩnh-Nam. Ai cũng an phận. Thí chủ chí thì có, tài thì dư. Chỉ còn mong chữ thời nữa mà thôi.



Lý Long thất kinh hồn vía, hỏi:



- Thì ra sư thái biết cả rồi ư?



Sư thái Tịnh-Huyền mỉm cười móc trong bọc ra một cái túi nhỏ:



- Thí chủ cứ coi cái túi này thì rõ.



Lý Long cầm túi mở nút. Dưới ánh trăng hiện ra một tượng Phật bằng ngọc đỏ chói. Chàng ngẩn người, kính cẩn hỏi:



- Thưa sư thái, ngọc thì đúng. Song thực hư khó phân. Đệ tử không tin.



Thanh-Mai cười:



- Anh cả ơi! Hiện trên đất Việt các thiếu niên đồng tuổi với anh cả, hiếm có người văn võ kiêm tòan như anh cả. Bây giờ anh cả đang là vị vương. Mai này anh cả về triều, nghị sự cùng thiên-tử, đại hội anh hùng thiên hạ, chỉ cờ lên phương Bắc, thống nhất Việt tộc liên kết Liêu, Tây-Hạ, ta đòi đất cũ. Còn giang sơn nhà Tống chia cho các nước kia, thì cái sự nghiệp như vua An-Dương, vua Trưng đâu có thể không thành? Anh cả phải có cái nhìn sắc bén chứ? Một người tứ đại giai không như sư phụ của em, không lẽ lại muốn hơn thua một chút danh hão thế tục? Không lẽ lão nhân gia ở địa vị tối cao phái Mê-Linh, còn muốn mạo xưng một địa vị nhỏ bé???



Tự-Mai cũng xen vào:



- Khi anh cả cùng đại sư Huệ-Sinh đạo trưởng Nùng-Sơn gặp chúng em ở đưới gốc đa xã Cổ-linh. Sư phụ dùng thần công Lăng không truyền ngữ dặn chúng em rằng Bất cứ anh cả nói gì mà sư phụ không ngăn cản cũng phải tuân theo như tuân lệnh sư phụ . Tại sao? Tại vì sư phụ biết anh cả là ai. Thương anh cả cả vì tình máu mủ thì ít. Mà giúp cái chí anh cả thì nhiều. Vì vậy anh cả đề nghị kết anh em. Chúng em phải tuân ngay.



Vua Lý Thái-Tổ xuất thân hàn vi. Bố chết sớm, mẹ nghèo khó, phải gửi ngài lên ở chùa làm mướn độ nhật. Nhờ thông minh, ngài được sư Lý Khánh-Vân nhận là con nuôi, vì vậy ngài mang họ Lý. Sau được thiền-sư Vạn-Hạnh nhận làm đệ tử. Trong khi đó thân mẫu cùng em trai, em gái phải đi ở đợ. Năm mười tám tuổi, nhờ tài học, nhờ sư phụ làm quân sư cho triều đình nhà Lê, ngài được cử làm quan võ. Ngay khi làm quan, ngài tìm mẹ và em đem về nuôi dưỡng. Năm Đinh-dậu, nhằm niên hiệu Ứng-thiên thứ tư đời vua Lê Đại-Hành (997). Vua đem quân đánh Chiêm-thành. Ngài được cử là tiên phong. Sau khi thắng giặc, vua thu thập không biết bao nhiêu vàng, ngọc châu báu. Trong đó có hai tượng phật bằng hồng ngọc. Vua thấy ngài xuất thân là cư-sĩ Phật-gíao, đệ tử phái Tiêu-sơn, ban cho ngài. Ngài đem một tượng tặng cho em gái. Năm Kỷ-dậu (1009), khi mới lên ngôi vua, ngài truy phong cho cha làm Hiển-Khánh đại-vương. Phong cho mẹ tước thái hậu Minh-Đức. Lập con trai là Phật-Mã làm thái tử, bấy giờ mới có mười tuổi. Phong cho em gái làm công chúa Hồng-Châu. Các con đều được phong tước Hầu, mười ba con gái đều được phong công chúa. Ngài nói với các con : « Bình sinh ta chỉ có một em gái. Ta theo đạo Phật. Đạo Phật không phân biệt nam nữ như đạo Nho. Vì vậy các con phải coi cô như ta. Ta có hai tượng Phật bằng ngọc. Ta giữ một. Trong các con đứa nào có đức ta truyền ngôi cho, thì sẽ được giữ tượng ngọc. Một ta tặng cho cô. Sau này các người thấy tượng cũng như thấy ta, phải kính cô như ta ».



Hồi công chúa Hồng-Châu đến tuổi trưởng thành, bấy giờ vua Lý Thái-Tổ là tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Thấy em gái không nghĩ đến phú qúi, mà chỉ say mùi đạo, nhất tâm nhất trí tìm đường giải thoát khỏi cảnh luân hồi. Mẹ, anh khuyên sao cũng không được. Ngài quá thương em, khuyên răn, lại bị công chúa thuyết pháp ngược lại. Khuyên không được, ngài dùng quyền, ép công chúa lấy Lạc-hầu Lạng-châu, là người em kết nghĩa, đã từng giúp ngài rất nhiều trong thời gian lập nghiệp tên Thân Thiệu-Anh.



Sư thái vẫy Lý Long lại gần, thình lình bà chìa ngón tay trỏ chĩa vào người chàng phát một chỉ. Lý Long kinh hãi, nhảy lui lại hai bước. Chỉ đó phóng trúng đất chỗ chàng đứng, kêu xùy một tiếng. Cát bụi bay mịt mờ. Tịnh-Huyền lại dùng ngón tay giữa phóng một chỉ vào ngực chàng. Lý Long nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Cứ như thế, Tịnh-Huyền phong liên tiếp ba mươi sáu chỉ, rồi ngừng lại mỉm cười.



Lý Long cung cung, kính kính qùi gối trước sư thái lạy liền tám lạy:



- Thần nhi kính cẩn ra mắt cô-mẫu. Xin cô mẫu rộng dung, vì thần nhi cách xa cô mẫu từ hồi còn thơ, trí nhớ không được làm bao.



Hòa thượng Huệ-Sinh, đạo trưởng Nùng-Sơn, Lý Mỹ-Linh, Tạ Sơn đồng qùi xuống rập đầu trước sư thái Tịnh-Huyền. Sư thái phất tay, không cho hòa thượng Huệ-Sinh cùng đạo trưởng Nùng-Sơn hành lễ. Bà nói:



- Xin đại sư, cùng đạo trưởng miễn cho những lễ nghi của thế tục.



Bà kéo Lý Mỹ-Linh ngồi xuống bên cạnh:



- Công chúa giả trai vụng về quá. Tiếng nói trong trẻo, êm đềm, khuôn mặt sáng như trăng, mà giả trai thì không qua mắt được chúng nhân đâu. Dường như năm nay công chúa 16-17 tuổi rồi thì phải.


- Ngày hai mươi mốt này, các gia, các phái võ sẽ tề tựu ở núi Sơn-trang, tế lăng Lệ-hải Bà-vương. Bần ni không xuất hiện đâu. Hài nhi cứ tự tiện. Phải cẩn thận lắm mới được. Bọn Tống ắt sẽ trà trộn vào dò la. Tốt hơn hết hài nhi làm ra vẻ nhã lượng cao trí, thu dụng nhân tâm. Chớ có lộ cái chí của mình ra mà mang họa.



Đến đó bà nhắm mắt nhập thiền. Lý Long vẫy mọi người lùi dần đến phía bờ sông. Tự-Mai hỏi:



__ Này anh cả. Chí của anh thì lớn thực. Song em không hiểu anh cả đã làm được những gì. Ở đây toàn người tâm phúc của anh. Anh có thể cho biết được không?



Lý Long đáp:



- Trước kia học sử Đại Việt, anh chỉ biết ấm ức trong lòng. Sau này gặp sư phụ. Anh ngỏ ý ấy với người. Chính người khuyến khích anh biến từ tư tưởng thành hành động. Rồi anh được gặp đạo trưởng đây. Phụ hoàng vừa mừng, vừa ngạc nhiên không ít. Anh có ý định đến Thiên-trường yết kiến chưởng môn phái Đông-a là phụ thân hiền đệ. Nhưng phải đợi sau khi tế Lệ-hải Bà-vương đã. Nhưng phái Đông-a vốn chống triều đình, dễ gì thân phụ hiền đệ tiếp anh.



Tự-Mai chỉ chị:



- Tiếp Khai-quốc vương thì không chắc người tiếp. Còn tiếp cái chí của anh thì người cầu mà không được. Cái chìa khóa là chị Thanh. Trong Thiên-trường ngũ kiệt, thì chú Trần Kiệt là cái túi khôn, chú nói gì bố em cũng nghe. Mà chú là sư phụ của chị Thanh. Chú yêu chị Thanh lắm. Bọn em được đi thế này là nhờ chú xin cho đấy.



Huệ-Sinh hỏi Thanh-Mai:



- Cô nương với Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An là chỗ thế nào?



- Bạch thầy người là thân phụ của con.



Huệ-Sinh gật đầu:



- Khi mới gặp cô nương. Bần tăng thấy dáng dấp hơi quen. Thì ra cô nương là con của người bạn cố tri năm xưa. Thế nào nghĩa đệ của ta vẫn khỏe chứ?



- Đa tạ sư bá, thân phụ cháu vẫn mạnh, người nhắc đến sư bá luôn. Thì ra sư bá là bạn của bố cháu đấy.



Nàng chắp tay lại hành lễ.



Nàng nói với Lý Long:



- Anh cả ạ. Phái Tiêu-sơn thì đã có thầy ở đây lo cho rồi. Phái Mê- linh, thì sư phụ em nói một tiếng thì xong. Phái Tản-viên, đã có Nùng đạo trưởng. Phái Đông-a, em tin rằng bố em sẽ giúp anh. Chỉ còn phái Sài-sơn với phái Tây-vu nữa là xong. Khi sáu đại môn phái cùng hết sức giúp anh thì lo gì đại sự không thành?



Huệ-Sinh mỉm cười:



- Không giản dị như cháu tưởng đâu. Đại-Việt ngũ long mà còn chưa ngồi lại với nhau được, thì nói chi đến võ-lâm.



Tôn Đản ngơ ngác:



- Đại-việt ngũ long là gì vậy, thưa đạo trưởng?



- Họ là năm đại tôn sư võ học, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Đó là Hồng-sơn lão nhân Lê Huy chưởng môn phái Sài-sơn.



Tôn Đản ngắt lời:



- Dường như ông còn có hiệu là Nam-thiên thánh-y thì phải. Cháu nghe năm trước đây vua Tống Thái-tông sai sứ sang mời ông chữa bệnh cho một phi tần mà vua rất sủng ái. Không những ông không chịu đi, mà còn muốn giết sứ giả. Ông chữa bệnh với ba điều kiện, một là không chữa cho người họ Lý. Hai là không chữa cho người Hán. Ba là chỉ chữa những bệnh mà trên thế gian này không ai chữa được.



Lý Long gật đầu:



- Đúng thế. Đó là một khó khăn, ông ta thù hận với họ Lý nhà anh, thì làm sao ông chịu hợp tác với chúng ta trong việc trọng đại này? Ông lập ra Vạn-thảo sơn-trang, thu dụng hơn ba nghìn đệ tử, gửi đệ tử đi khắp nơi cứu dân độ thế. Vì vậy ơn nghĩa trải khắp Việt, Hoa.



Nùng-Sơn tử tiếp:



- Người thứ nhì là Tây-sơn đại hiệp Đặng Đại-Khê. Ông giỏi võ đã đành, ông còn tinh thông tướng số, phong thủy. Ông làm chưởng môn phái Tản-viên người nhiều thế mạnh. Ông không phục bản triều vì lý do đức hòang đế xuất thân từ cửa Thiền, mà ông thì ông không có đạo nào cả. Ông chủ trương một tôn giáo thờ anh hùng đất Việt mà thôi.



Nùng-Sơn tử nhìn Thanh-Mai:



- Trong năm người, thì người thứ ba quan trọng nhất. Võ công cao là điều đương nhiên. Ông là người bác-học, đa-năng, thiên-văn, địa-lý, binh-pháp, không môn nào mà không thông. Đệ tử của ông rất nhiều, tòan những tay quái kiệt đương thời. Tiếng tăm vang dậy, đến vua Tống còn phải ra lệnh cho Khu-mật-viện bằng mọi giá phải chiêu mộ cho được. Vua Tống gửi sứ giả sang mời ông giữ chức Phiêu-kỵ đại tướng quân là chức võ quan cao nhất, giao cho ông lĩnh ấn Chinh-tây đại nguyên súy đánh Tây-hạ. Ông từ chối. Đức hòang đế bản triều sai sứ giả mời ra giữ chức Thái-úy phụ quốc, quản Khu mật viện ông cũng từ chối. Người đó là Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An.



Thanh-Mai thở dài:



- Bố cháu thề không cộng tác với triều đình, chứ không thù hận nhà Lý.



Nùng-Sơn tử:



- Ta cho rằng bố cháu cao ngạo thì đúng hơn. Ra làm quan để làm gì? Để có vàng bạc ư? Bố cháu giầu có ức vạn đâu cần đến. Để có danh ư? Danh bố cháu lẫy lừng hơn cả hoàng đế. Cũng như ta với đại-sư Huệ-Sinh vậy. Triều đình mời ra thì chối. Song vương gia đây đem cái chí, kéo cao ngọn cờ Lĩnh-nam thì chúng ta ra.



Tôn Đản cười:



- Cháu nghĩ mời Côi-sơn đại hiệp không khó!



Lý Long ngạc nhiên:



- Em cho biết lý do!



- Chỉ cần anh cả lấy lễ đến cầu người ra giúp cho cái chí của anh, em nghĩ người ra liền.



Tự-Mai vỗ vai Tôn Đản:



- Giỏi. Anh Đản giỏi. Anh hiểu được bố em.



Tôn Đản cười:



- Cứ lý mà suy, đâu có gì khó hiểu đâu? Người đời thường vẽ rắn thêm chân, tìm cái xương trong quả trứng gà, rồi cho rằng đại hiệp Tự-An khó. Anh thấy ông dễ là khác. Ông không dễ, đời nào cho con trai, con gái đi ra ngoài loạn lên thế này. Dù đi với bản sư.



Nó hỏi Nùng-Sơn tử:



- Thưa đạo trưởng còn hai người nữa?



- Hai người này, trái lại, nhất tâm nhất trí với triều đình. Một người là chưởng môn phái Tiêu-sơn, là sư huynh của đức hòang đế, tức Minh-Không quốc sư.