Anh Linh Thần Võ Tộc Việt
Chương 14 : Quốc sự tối khẩn
Ngày đăng: 12:12 18/04/20
Mọi người cùng ngơ ngác. Lê Văn cũng kinh ngạc. Nhưng chợt nó hiểu ngay:
- Bà chằng Bảo-Hòa chứ không ai lạ. Bả dùng Lăng-không truyền ngữ sai đôi công đánh Phạm Ung.
Nguyên từ thời Lĩnh-Nam, công chúa Hồ Đề cùng chư đệ tử phái Tây-vu nghiên cứu về tiếng nói của các loài thú vật, luyện thành tám đạo quân ưng, sói, voi, ong, rắn, khỉ, hổ, báo gây kinh hoàng cho quân Hán. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, các đệ tử Hồ Đề lập thành phái Tây-vu chuyên nghiên cứu về âm thanh của thú vật.
Trải hơn nghìn năm đến nay chưởng môn phái Tây-vu là ông nội Bảo-Hòa thì bản lĩnh học tiếng thú vật càng tinh thâm đến cùng cực. Ngay từ nhỏ, Bảo-Hòa được chân truyền thuật này. Bây giờ nàng cùng Thông-Mai ẩn thân trong lớp áo thị vệ, cung nữ. Nàng thấy Phạm Ung dùng tiêu tấu nhạc cho công múa. Tính tinh nghịch nổi dậy, nàng dùng lăng không truyền ngữ sai nó tấn công Phạm Ung. Vì vậy không ai hiểu tại sao bỗng dưng đôi công lại hóa điên như vậy.
Duy sứ đoàn Đại-Việt biết ngay đây là tuyệt tác của Bảo-Hòa. Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản vội sai hai thái giám trông coi thú vật trong ngự hoa viên ra bắt đôi công về.
Mặt Phạm Ung tái đi:
- Ma nhập! Quỷ ám. Hai con công này hóa điên.
Tào Lợi-Dụng hất hàm cho Lê Văn:
- Bây giờ đến lượt chú bé kia.
Hai thái giám ôm cặp công khác để giữa sân. Lê Văn dùng ống tiêu phát ra tiếng loài công, sai chúng. Đôi công đến trước thềm đình hướng Hoàng-đế cúi đầu, xòe cánh, qùy gối lạy đủ tám lạy. Mỗi lần lạy chúng lại hót mấy tiếng.
Từ nhà vua đến quần thần thấy Lê Văn sai công hành đại lễ, đều hoan hô. Trong lòng họ nảy ra sự cảm phục thiếu niên nhiều biệt tài.
Lê Văn dịch:
- Đôi công tham kiến Thái-hậu, Hoàng-thượng cùng chư vị đại thần.
Sau khi chúng lạy đủ tám lạy. Lê Văn ra giữa sân cầm tiêu tấu nhạc. Tiếng tiêu cất lên, đôi công múa thực đẹp. Có khi chúng bay lên cao, nhào lộn trên không, cùng cất tiếng hót theo âm tiêu. Có khi chúng tới trước nhà vua xòe cánh, cúi đầu. Cứ như vậy cho đến hết bản nhạc, chúng lại hành lễ với nhà vua, rồi lạy Lê Văn bốn lạy.
Tự-Mai hỏi Phạm Ung:
- Phạm đại học sĩ. Người thấy sao?
Mặt Phạm Ung xám như tro. Y nói:
- Đây là ta không may, trúng phải cặp công điên khùng, chứ về tiêu thuật ta đâu thua thằng láu cá kia?
Tự-Mai cười nhạt:
- Thú vật vốn có linh tính. Khi thấy người bất trung, bất hiếu, thì chúng mổ, cấu là lẽ đương nhiên. Ngài bảo chúng điên ư? Vãn sinh cho rằng chúng rất tỉnh. Ngài thử nhìn, Lê đệ của vãn sinh sai nó múa cho ngài coi.
Nghe anh nói, Lê Văn cười rất tươi. Chàng để tiêu lên miệng thổi bài Phụng cầu kỳ hoàng. Bốn con công cùng cất cánh bay lên trời, múa theo tiếng tiêu. Khi bản nhạc dứt, nó bay về phía ngự viên, chứ không đáp xuống cạnh thái giám chăn nó nữa.
Triều Tống cùng cảm thấy trong cuộc đấu ẩn tàng điều bí mật gì, nhưng không có chứng cớ, nên đành im lặng.
Phạm Ung nói:
- Bây giờ đấu theo lệ Tống. Hai bên cùng tấu nhạc. Ai muốn tấu bản gì tùy ý. Cả hai dùng âm thanh nhiễu loạn nhau. Ai mệt, tiếng tiêu bị rối loạn coi như thua cuộc.
Lê Văn cười nhạt, nghĩ thầm:
- Thiên đường có nẻo mi không đến. Địa ngục không đường dẫn xác vào. Nếu mi chịu thua ta có thể tha cho mi. Mi cãi chầy, cãi cối, ta sẽ cho mi bài học.
Chàng nói:
- Nào chúng ta cùng tấu.
Lê Văn, Phạm Ung đưa ống tiêu lên miệng. Hai người tấu được nửa bản, thình lình Lê Văn truyền nội lực vào tiếng tiêu. Âm thanh phát ra khiến Phạm Ung không tự chủ được người y lảo đảo. Lê Văn càng thổi, người y càng ngả nghiêng. Lát sau y buông hai tay, ống tiêu rơi xuống thềm điện. Hai chân y bước loạn, chân nam đá chân xiêu như người say rượu. Mặc Ung nghiêng ngả, Lê Văn tiếp tục thổi, tiếng tiêu lọt vào vào tai mọi người rất dễ chịu. Trong khi cũng tiếng tiêu đó vào tai Phạm Ung, thì y ngả nghiêng múa may theo điệu nhạc.
Cả triều thần không ai hiểu tại sao cả. Chỉ duy Khai-Quốc vương là hiểu rõ:
- Thì ra Bảo-Dân dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Phạm Ung một thứ âm giai. Thứ này hợp với tiếng nhạc của Lê Văn thành bản nhạc ma quái mà y đã dùng để hại hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ trên hồ Động-đình. Cho nên ai nghe tiếng nhạc cũa Lê Văn cũng khoan khoái. Còn Phạm Ung thì khốn khổ thế kia. Nhị sư huynh quá lắm. Nhưng đối phó với bọn hủ Nho, mà lại tham vọng muốn gây hấn với lân bang này không thế không xong.
Tiếng tiêu của Lê Văn thì rất lọt tai. Trong khi Phạm Ung múa may quay cuồng như người điên. Y muốn dừng lại, nhưng không được. Y lảo đảo đến gần ngai vàng, rồi lại lui sang tả ban, hữu ban. Có lúc người quay tròn như chong chóng. Lát sau, mệt quá, y ngồi thụp xuống điện, nhưng tay vẫn múa, đầu vẫn lắc. Bản nhạc hết, Lê Văn hạ tiêu xuống, thì Phạm Ung cũng thôi múa. Y mệt quá, y gục xuống điện. Thị vệ vội vực y đem ra ngoài.
Lê Văn khấu đầu trước nhà vua:
- Chút tài mọn, thực không bõ làm trò cười. Xin bệ hạ khoan thứ.
Cả đình thần nhà Tống đều thấy trong cuộc ấu này, phía Đại-Việt ẩn tàng một điều kỳ bí, mà không ai biết rõ. Nhưng vì không chứng cớ, họ đành ngậm tăm.
Thái-hậu hỏi:
- Lê công tử. Phải chăng người là con trai của Hồng-Sơn đại phu bên Đại-Việt?
- Tâu thái hậu, thần trẻ người, non dạ, tính bồng bột, nên chưa học được một phần trăm bản lĩnh của phụ thân, nghĩ thực xấu hổ. Vừa rồi thần lộ cái xấu xa ra, mong Thái-hậu khoan dung đại độ.
Tự-Mai với Lê Văn cùng xuất thân trong gia đình danh gia, hơi giống nhau. Tự-Mai ảnh hưởng tính ngang tàng của Trần Tự-An, một anh hùng thảo dã coi trời bằng vung, nói năng không cần quy củ phép tắc. Ngược lại Lê Văn là cháu nội một Hoàng-đế, nên nó quen với ngôn từ của cung đình. Nó nói mấy câu, làm Thái-hậu cũng như triều đình hài lòng.
Thái-hậu nghĩ:
- Thiếu niên này có thực tài. Ta phải ban khen cho đúng thể diện mẫu nghi thiên hạ.
Nghĩ vậy bà tuyên:
- Thực không hổ con cháu vua Lê. Vừa rồi thế tử dùng nội lực dồn vào tiếng tiêu, làm Long-đồ các đại học sĩ không tự chủ được, đến phải múa may quay cuồng. Lối để tiêu xa miệng, rồi dùng môi khiến hơi thành gió vào ống tiêu, ta có nghe nói, nay mới được thấy. Này Lê thế tử, năm trước Lê triều đem cống tiên đế một cây đàn cùng nhạc công. Đàn gì mà chỉ có một dây? Nay nhạc công đã qua đời rồi nên không ai biết xử dụng. Lê công tử thử tấu cho triều đình biết một lần.
Một nhạc quan bưng ra cây đàn bầu. Lê Văn tiếp đàn, rồi tâu:
Tự-Mai cười lớn đưa hai bàn tay ra:
- Quốc công sao lại chỉ trâu bảo ngựa vậy? Này quốc công ơi, phàm khi người luyện Chu-sa ngũ độc chưởng, lòng bàn tay phải đỏ. Lòng bàn tay tôi thế này, mà bảo rằng luyện Chu-sa chưởng ư?
-- Thế sao con ta bị trúng độc?
-- Công tử dùng Chu-sa độc chưởng tấn công tôi. Nhưng nội công người thấp hơn tôi xa, nên bị tôi đẩy ngược trở về thân người. Tôi chỉ trả những gì người đánh tôi mà thôi.
Tào Nhuế vừa rên vừa thét lên kinh khủng. Y móc trong bọc ra viên thuốc, cho vào miệng nuốt, rồi ngồi xuống vận công cho mau tan. Nhưng càng vận công y càng đau đớn khủng khiếp.
Thái- hậu hỏi Lê Văn:
- Thế tử. Liệu thế tử có thể trị được bệnh cho Tào Nhuế chăng?
Lê Văn tâu:
- Thần có thể làm cho Tào công tử tê liệt trong hai giờ mà thôi.
Lê Văn bước tới điểm vào huyệt Đại-trùy, khiến cho Tào Nhuế bớt đi phân nửa đau đớn. Chàng cười lớn:
- Tào công tử. Người hãy trả lời những câu hỏi của tôi, tôi sẽ trị bệnh cho. Bằng không tôi để mặc. Câu hỏi thứ nhất: Có phải người luyện Chu-sa ngũ độc chưởng không?
- Ái, đau chết đi được. Giết ta đi. Ta... ta có luyện Chu-sa độc
chưởng. Ái.
- Thế sư phụ công tử là ai?
- Ái, ái... là Lê Lục-Vũ. Giết ta đi.
- Triệu Đức-Sùng công tử giam đâu?
- Ta... ta giết chết, chôn xác ở ngoài thành rồi.
Lê Văn điểm vào huyệt Nội-quan của Tào Nhuế. Y hết đau liền. Tự-Mai cúi đầu hướng nhà vua xá ba xá, rồi về chỗ đứng. Còn Lê Văn hướng hướng Thái-hậu:
- Điều mộng ước của thần là mong Thái-hậu xử vụ này công bằng cho người chết được ngậm cười.
Thái-hậu ra lệnh:
- Giam Tào Nhuế lại, giao cho Hình-bộ thượng thư xét trị tội.
Luật triều Tống rất nghiêm. Phàm con cháu đại thần phạm tội lấn át lương dân, thì dù là tể thần, cũng bị cách trật, chức tước, bắt đi đầy. Tự-Mai thấy Thái-hậu lờ không trị tội Tào Lợi-Dụng, chàng biết rằng chưa thể hạ y được. Vì Lợi-Dụng là cột trụ của Thái-hậu.
Một đại thần bước ra quỳ tâu:
- Tâu hoàng thượng, thần Trương Sĩ-Tổn, lĩnh Văn-minh điện đại học sĩ, Đồng bình chương sự, Hữu bộc xạ xin tâu: Xét trong sử Việt, Hán, cũng như di tích còn ghi ở vùng Động-đình, Tương-giang, Tương-đài, thì tộc Hán, tộc Việt vốn cùng một nguồn gốc. Sau này những người hiếu sự mới gây ra cuộc Nam, Bắc chiến tranh, khiến cho Việt, Hán thù hận nhau.
Tự-Mai nghe Tổn tâu, nó nghĩ thầm:
- Ông này chủ trương thân Lĩnh-Nam, mình phải đưa hơi cho Hoàng-đế phong ông làm tể tướng mới được.
Chàng bước ra tâu:
- Tâu đại ca. Nếu như trong triều toàn Nho-sĩ giữ chính đạo như Trương đại-học sĩ, đệ e khắp bốn phương nghe danh, đều cúi đầu như cỏ rạp hướng về thiên triều, khỏi cần binh cách. Hỡi ôi! Trương đại-học sĩ là hình bóng của đức thánh Khổng cùng Mạnh á-thánh vậy.
Trương Sĩ-Tổn cùng phe chủ hòa nghe Tự-Mai tâu, họ đều nghĩ thầm:
- Với một thiếu niên tuổi nhỏ thế kia đâu có thể nói được những điều cao xa như vậy. Đây hẳn là ý Hoàng-đế đây. Người sai nó ra nói, để dằn mặt bọn hiếu chiến. Nghĩ vậy y tâu tiếp:
- Hoàng thượng nức danh thiên hạ về đức hiếu, đức nhân. Nay nhân có Khai-Quốc vương đây. Bệ hạ làm vua tộc Hán, thì là anh. Thuận-Thiên hoàng đế làm vua tộc Việt, thì là em. Bệ hạ nên tỏ ra bao dung, phủ dụ Thuận-Thiên hoàng đế, hầu kết chặt tình Hán-Việt.
Nhà vua hướng vào quần thần:
- Hôm nay chư khanh cùng hiện diện với sứ thần Đại-Việt. Chúng ta nghị sự về việc này. Bây giờ chư khanh cho biết ý kiến.
Lã Di-Giản bước ra tâu:
- Từ khi đức Thái-tổ nhà ta lập nghiệp rồng, Đinh Bộ-Lĩnh sai sứ sang triều phục, được phong Khai phủ nghị đồng tam tư, kiểm hiệu thái sư, Giao-chỉ quận vương . Sau Lĩnh, Liễn bị giết, Lê Hoàn cướp ngôi từ ấu chúa, nên niên hiệu Thái-bình hưng quốc thứ năm (Canh-Thìn 980), triều đình quyết đem quân chinh thảo. Đức Thái-tông sai Lan-châu đoàn luyện sứ Tôn Toàn-Hưng, Bát-tác sứ Trương Tuyền, Tả-giám vệ tướng quân Thôi Lượng, Tả ngưu vệ thượng tướng quân Hầu Nhân-Bảo, Trang-võ đại tướng quân Trần Khâm-Tộ, Tuyên-uy đại tướng quân Triệu Phụng-Huân, Ninh-viễn đại tướng quân Quách Quân-Biện...đem bộ quân theo đường Ung-châu tiến sang. Lại sai Ninh-châu thứ sử Lưu Trừng, Quân-khí khố phó sứ Giả Thực, Cung-phụng quan chỉ hậu Vương Tuyển, theo đường thủy từ Quảng-châu nhập. Hoàn dám đem quân chống cự.
Tự-Mai cười thầm:
- Mẹ cha tên cẩu Nho này trí nhớ tốt gớm.
Di-Giản tiếp:
- Thái-bình hưng quốc thứ sáu (Tân-Tỵ, 981), vì thủy thổ bất hợp, tướng sĩ bị bệnh. Triều đình ra lệnh thoái quân. Năm sau Lê Hoàn hậu lễ xin quy phục. Triều đình nghị tha tội Hoàn, phong cho Kiểm hiệu thái bảo, đô đốc Giao-chỉ chư quân, An-Nam đô hộ, Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Sau thăng lên Kiểm hiệu thái úy. Đời Tiên-đế gia cho làm Nam-bình vương, đới Thị-trung. Niên hiệu Đại-trung tường phù thứ ba (Canh-Tuất 1010), nhân Lê Long-Đĩnh chết, con còn thơ, cường thần Lý Công-Uẩn cướp ngôi. Y biết điều, sai sứ hậu cống xin phong. Tiên đế khoan thứ, phong cho Kiểm hiệu thái phó. Tĩnh hải tiết độ sứ, quan sát sứ, xử trí sứ. An-Nam đô hộ. Ngự sử đại phu. Thượng trụ quốc, Giao-chỉ quận vương, suy thành thuận hoá công thần dần dần đến nay là Kiểm hiệu thái sư. Đồng bình chương sự. Nam-bình vương.
Di-Giản đưa mắt nhìn Định-vương:
- Xét ra chức tước triều đình phong cho Uẩn lên đến tột đỉnh. Thế mà y rắp tâm làm phản dám xưng là Thuận-Thiên hoàng đế, bỏ tên quận Giao-chỉ, đổi thành Đại-Việt. Đại để tỏ ra nước y lớn. Việt là vượt, tức vượt biên hướng lên Bắc, xâm phạm đất của Thiên-triều. Nay có con Uẩn là Long-Bồ đây, xin triều đình bắt y trả lời rõ về việc đại nghịch của cha. Nếu y trả lời không thông, Thiên-triều phải mang quân sang chinh thảo, chém bọn phản nghịch, để bọn Man-di kinh hồn không dám phạm biên nữa.
Tào Lợi-Dụng được dịp trả thù. Y tâu:
- Mới đây, con gái Lý Công-Uẩn là vợ Thân Thừa-Quý cho quân vượt biên lên Bắc, tiến chiếm hết các khê-động theo Thiên-triều. Chúng chỉ dừng quân lại khi chiếm được vùng Tả-giang, Hữu-giang. Quân Giao-chỉ giết hại biết bao lương dân, cùng văn võ các quan ở Nam-biên. Lý Long-Bồ lĩnh Phụ-quốc thái-úy Giao-chỉ, y không thể chối cái tội này.