Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea
Chương 21 : Cô lavendar đáng yêu
Ngày đăng: 16:06 19/04/20
Trường học khai giảng và Anne quay lại làm việc, với ít lý thuyết nhưng rõ ràng là nhiều kinh nghiệm hơn hẳn. Cô có vài học trò mới, những đứa bé mới sáu hay bảy tuổi ngơ ngác bước vào thế giới đầy mới lạ. Trong đó có cả Davy và Dora. Davy ngồi cạnh Milty Boulter, cậu này đã đi học được một năm, do vậy có thể coi là một người khá từng trải. Tuần trước ở trường Chủ nhật, Dora đã hứa hẹn ngồi chung với Lily Sloane, nhưng Lily Sloane không đi học bữa đầu tiên, thế là cô bé tạm thời được phân ngồi cạnh Mirabel Cotton, cô nàng này đã được mười tuổi, vì vậy được coi là một “cô gái trưởng thành” trong mắt Dora.
“Cháu nghĩ trường học rất thú vị,” Davy nói vởi bà Marilla khi nó về nhà tối hôm đó. “Bà nói cháu sẽ thấy khó mà ngồi yên, đúng như vậy... bà gần như toàn nói đúng, cháu để ý thế... nhưng cháu có thể co duỗi chân dưới gầm bàn, nhờ vậy cũng đỡ được nhiều lắm. Có nhiều cậu bạn chơi chung thật là tuyệt. Cháu ngồi kế Milty Boulter và nó cũng hay. Nó cao hơn cháu nhưng bề ngang cháu to hơn. Ngồi ở ghế chót thì thích hơn, nhưng ta không thể ngồi ở đó cho tới khi chân dài đủ để chạm đất. Milty vẽ hình cô Anne trên bảng của nó, cái hình xấu khủng khiếp và cháu dọa là nếu nó dám vẽ hình Anne như vậy nữa thì cháu sẽ uýnh nó vào giờ ra chơi. Ban đầu cháu định vẽ hình nó có sừng và đuôi, nhưng cháu sợ làm tổn thương cảm xúc của nó, cô Anne bảo là không bao giờ được làm tổn thương cảm xúc của người khác. Dường như là bị tổn thương cảm xúc thì đáng sợ lắm. Thà đánh gục một thằng con trai còn hơn là làm tổn thương cảm xúc của nó, nếu mà phải cho nó một bài học. Milty nói nó không sợ cháu, nhưng nó liền đổi tên bức tranh để triều ý cháu, thế là nó xóa tên cô Anne và viết tên Barbara Shaw vào. Milty không thích Barbara, dzì con bé gọi nó là bé trai đáng yêu và có lần còn xoa đầu nó nữa.”
Dora nghiêm nghị nói rằng thích đi học, nhưng cô bé trở nên quá sức yên lặng hơn hẳn ngày thường, và khi trời chập choạng, bà Marilla bảo cô bé lên lầu đi ngủ, cô bé ngần ngừ rồi òa lên khóc.
“Cháu... cháu sợ,” cô bé nức nở. “Cháu... cháu không muốn lên lầu một mình trong bóng tối.”
“Cháu nghĩ cái quái gì trong đầu thế?” bà Marilla hạch hỏi. “Rõ ràng cháu đi ngủ một mình suốt mùa hè mà có sợ hãi khi nào đâu.”
Dora vẫn thút thít, thế là Anne ẵm cô bé lên, đu đưa dịu dàng và thì thầm hỏi,
“Kể cho cô Anne nghe đi, bé yêu. Cháu sợ gì vậy?”
“Sợ... sợ chú của Mirabel Cotton,” Dora nức nở. “Hôm nay khi ở trường Mirabel Cotton kể hết cho cháu nghe về gia đình của chị ấy. Gằn như mọi người trong gia đình chị ấy đều đã chết., ông này, bà này, rồi vô số cậu và dì nữa. Họ quen thói chết, Mirabel nói thế. Mirabel tự hào khủng khiếp khi có nhiều họ hàng chết như vậy, và chị ấy kể cho cháu nghe lý do họ chết, họ đã nói gì và họ trông thế nào trong quan tài. Và Mirabel nói rằng một người chú của chị ấy đi vòng vòng trong nhà sau khi đã được chôn cất. Mẹ chị ấy đã chính mắt thấy. Cháu không ngại những người còn lại, nhưng cháu không thể không nghĩ tới người chú đó.”
Anne lên lầu chung với Dora và ngồi bên cạnh cho đến khi cô bé ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, Mirabel Cotton bị giữ lại trong lớp vào giờ ra chơi và được khuyên nhủ một cách “nhẹ nhàng nhưng cương quyết” rằng dẫu cô bé quá xui xẻo khi có một người chú cứ cương quyết đi loanh quanh trong nhà ngay sau khi được chôn cất đàng hoàng, thì cô bé cũng nên tế nhị mà không kể về quý ông lập dị đó cho bạn cùng bàn còn nhỏ tuổi nghe. Mirabel cho rằng lời khuyên này thật khắc nghiệt. Nhà Cotton chẳng có bao nhiêu thứ để mà kiêu hãnh. Làm sao cô bé có thể giữ uy tín với bạn học khi mà bị cấm khoe mẽ về các hồn ma trong gia đình chứ?
Tháng Chín lùi đi nhường lối cho vẻ đẹp đỏ vàng thanh lịch của tháng Mười. Một chiều thứ Sáu nọ, Diana ghé sang chơi.
“Hôm nay tớ nhận được thư của Ella Kimball, Anne ạ, và cậu ấy muốn chúng mình đến nhà dùng trà vào trưa mai để gặp chị họ của cậu ấy, Irene Trent, mới từ thành phố về. Nhưng tớ không thể lấy ngựa của nhà đi được, vì mai chúng bị dùng hết cả rồi, còn con ngựa của cậu thì bị đau chân... nên tớ cho rằng chúng ta không thể đi được.”
“Sao chúng ta không đi bộ?” Anne đề nghị. “Nếu chúng ta đi thẳng xuyên qua khu rừng, chúng ta sẽ đến đường Tây Grafton không xa nhà Kimball mấy. Mùa đông năm ngoái tớ đã đi đường đó và tớ biết đường mà. Không đến bốn dặm, và chúng ta sẽ không phải đi bộ về, vì chắc chắn Oliver Kimball sẽ đánh xe đưa chúng ta về. Anh ta sẽ rất vui trước cái cớ này, vì anh ta đang tán tỉnh Carrie Sloane nhưng nghe đồn ba anh ta hiếm khi nào đưa ngựa cho anh ta.”
Theo đó, họ quyết định rằng sẽ đi bộ, và buổi trưa hôm sau, họ khởi hành, đi theo đường Tình Nhân đến mặt sau nông trại nhà Cuthbert, ở đó họ nhìn thấy một con đường dẫn sâu vào hàng mẫu rừng sồi và rừng phong, cả vạt rừng nhuốm màu vàng đỏ rực rỡ, chìm đắm trong ánh chiều yên bình và tĩnh lặng.
“Cứ như tháng năm đang quỳ gối cầu nguyện trong một giáo đường mêng mông đây ánh sáng êm dịu vậy, phải không?” Anne mơ màng. “Đi vội đi vàng qua rừng có vẻ như thật không nên không phải nhỉ? Có vẻ bất kính, như là chạy trong nhà thờ vậy.”
“Nhưng chúng ta phải nhanh chân lên,” Diana liếc nhìn đồng hồ. “Chúng ta chỉ còn rất ít thời gian.”
“Ồ, tớ sẽ đi nhanh nhưng đừng yêu cầu tớ nói chuyện,” Anne nói, chân bước nhanh hơn.
“Tớ chỉ muốn tận hưởng vẻ đáng yêu của ngày hôm nay... Tớ cảm thấy ngày hôm nay ngọt ngào như một ly rượu bồng bềnh ngay môi tớ, và tớ nhấm nháp từng ngụm một theo mỗi bước đi.”
Có lẽ bởi vì quá chuyên tâm “tận hưởng” mà Anne quẹo trái khi họ đi đến một ngẵ ba. Lẽ ra cô nên quẹo sang phải, nhưng sau này cô cho rằng đó là sai lầm may mắn nhất trong cuộc đời mình. Cuối cùng họ đi đến một con đường vắng vẻ cỏ xanh um, không có gì trong tầm mắt ngoại trừ những hàng cây vân sam non.
“Ôi, chúng ta đang ở đâu đây?” Diana kêu lên bối rối. “Đây không phải là đường Tây Grafton.”
“Không, đó là đường ranh giới ở Trung Grafton,” Anne nói vẻ xấu hổ. “Chắc tớ đã quẹo sai hướng lúc ở ngã ba. Tớ không biết chính xác mình đang ở đâu, nhưng chắc chắn là phải cách nhà Kimball ba dặm.”
Charlotta chắc cũng sẽ vâng lời nếu cô Lavendar yêu cầu đi đâu xuống đất, cô bé trèo lên cái ghế đá, phá lên cười thật to và chân thành. Tiếng vọng vẳng lại, như thể có một nhóm tiểu tiên đang bắt chước tiếng cười của cô bé trong cánh rừng tím sẫm và dọc theo những khoảng đất được cây linh sam vây quanh.
“Mọi người đều thán phục những tiếng vọng của tôi,” cô Lavendar nói cứ như đó là tài sản riêng của cô vậy. “Tôi cũng rất thích chúng. Chúng là những người bạn tốt... với một chút tưởng tượng. Vào những buổi chiều tối yên ả, Charlotta Đệ Tứ và tôi thường ngồi ngoài đây đùa giỡn với chúng. Charlotta, cất cái còi vào đúng chỗ nhé.”
“Vì sao cô lại gọi cô bé ấy là Charlotta Đệ Tứ?” Diana nãy giờ đang hết sức hiếu kỳ.
“Chỉ để phân biệt cô bé khỏi những Charlotta khác trong đầu tôi thôi,” cô Lavendar nghiêm túc đáp. “Bọn họ trông giống nhau quá đến mức chẳng phân biệt được. Tên của cô bé vốn không phải là Charlotta. Đó là... để tôi nhớ xem... là gì nhỉ? Tôi nghĩ đó là Leonora... đúng, chính là Leonora. Các cháu hiếu không, chuyện là thế này. Khi mẹ tôi qua đời mười năm trước, tôi không thể sống một mình ở đây... mà tôi lại không đủ tiền để trả lương cho một cô gái trưởng thành. Thế là tôi gọi Charlotta Bowman đến ở chung bao ăn bao mặc. Tên của cô nàng chính thật là Charlotta... đó là Charlotta Đệ Nhất. Lúc đó cô nàng mới mười ba tuổi. Cô nàng ở với tôi cho đến mười sáu rồi đến Boston, vì ở đó thì tìm được việc tốt hơn. Thế là cô em đến ở với tôi. Tên cô bé là Julietta... Bà Bowman thích những cái tên thật kêu, tôi nghĩ thế... nhưng cô bé trông y hệt như Charlotta làm tôi cứ gọi sai mãi... và cô bé cũng không phiền. Thế là tôi từ bỏkhông cố nhớ tên thật của cô bé làm gì nữa. Đó là Charlotta Đệ Nhị, và khi cô bé đi, Evelia đến và đó là Charlotta Đệ Tam. Giờ thì tôi có Charlotta Đệ Tứ, nhưng khi cô bé lên mười sáu tuổi... hiện giờ cô bé chỉ mới mười bốn... cô bé sẽ muốn đi Boston, và khi ấy tôi sẽ ra sao thì thực sự tôi cũng không biết nữa. Charlotta Đệ Tứ là cô con gái cuối cùng của nhà Bowman, và là cô gái tuyệt nhất. Những Charlotta kia luôn cho tôi thấy rằng họ nghĩ tôi ngốc nghếch khi chơi trò giả vờ, nhưng Charlotta Đệ Tứ chẳng bao giờ làm vậy, dẫu cô bé có nghĩ gì trong đầu. Tôi không quan tâm mọi người nghĩ gì về tôi nếu họ không để lộ cho tôi thấy suy nghĩ của họ.”
“Ôi,” Diana liếc nhìn mặt trời lặn một cách tiếc nuối. “Cháu nghĩ chúng cháu phải đi thôi, nếu muốn tới nhà ông Kimball trước khi trời tối. Chúng cháu đã rất vui, cô Lewis ạ.”
“Các cháu sẽ quay lại thăm tôi chứ?” cô Lavendar van nài.
Anne cao lớn choàng tay qua vai quý cô bé nhỏ.
“Nhất định mà,” cô hứa. “Giờ khi chúng cháu đã phát hiện ra cô; chúng cháu sẽ lợi dụng tối đa lòng hiếu khách để đến gặp cô. Vâng, chúng cháu phải đi rồi... buộc mình phải rời đi, như Paul Irving thường nói mỗi lần cậu bé đến Chái Nhà Xanh.”
“Paul Irving?” Giọng cô Lavendar hơi run một thoáng. “Là ai vậy? Tôi không nghĩ ra ai có tên như thế ở Avonlea.”
Anne cảm thấy bực bội trước sự vô tâm của mình. Cô đã quên mất chuyện tình cũ của cô Lavendar mà buột miệng nhắc đến tên của Paul.
“Đó là một cậu học trò nhỏ của cháu,” cô từ từ giải thích. “Năm ngoái cậu bé từ Boston chuyển về đây sống với bà nội, bà Irving trên đường bờ biển.”
“Cậu bé là con trai của Stephen Irving sao?” cô Lavendar hỏi, cúi xuống hàng rào hoa oải hương trùng tên với cô để giấu đi khuôn mặt của mình.
“Đúng vậy.”
“Tôi sẽ tặng cho mỗi cháu một bó oải hương,” cô Lavendar vui vẻ nói cứ như không hề nghe thấy câu trả lời. “Mùi hương của nó rất ngọt ngào, các cháu có nghĩ vậy không? Mẹ tôi rất yêu mùi hương đó. Mẹ tôi trồng những hàng rào này lâu lắm rồi. Ba tôi đặt tên cho tôi là Lavendar vì ông rất thích loài hoa này. Lần đầu tiên ông gặp mẹ tôi là khi ông cùng với anh trai bà đến thăm nhà bà ở Đông Grafton. Ông yêu bà ngay từ cái nhìn đầu tiên, họ mời ông vào ngủ trong phòng dành riêng cho khách, tấm ga trải giường thoang thoảng mùi oải hương, ông thao thức suốt đêm mơ mộng về bà. Từ đó về sau, ông đã đem lòng yêu mùi oải hương... đó là lý do ông đặt tên tôi là Lavendar. Đừng quên sớm ghé thăm tôi nhé, các cô gái yêu dấu. Chúng tôi sẽ chờ các cháu, cả Charlotta Đệ Tứ và tôi.”
Cô mở cánh cửa dưới tàng linh sam để họ đi qua. Cô chợt có vẻ già nua và mệt mỏi, vầng sáng rạng rỡ trên khuôn mặt đã mờ đi; nụ cười tạm biệt của cô vẫn ngọt ngào và thanh xuân vĩnh viễn như trước, nhưng khi hai cô gái quay đầu nhìn lại trước khúc quanh, họ thấy cô ngồi trên băng ghế đá cũ kỹ dưới tàng cây dương óng ánh bạc giữa khu vườn, đầu gục lên tay mệt mỏi.
“Cô ấy có vẻ cô đơn,” Diana nhẹ nhàng thốt. “Chúng ta nên đến thăm cô ấy thường xuyên.”
“Tớ nghĩ cha mẹ cô ấy đã đặt cho cô ấy cái tên duy nhất có thể hợp với cô ấy,” Anne nói. “Nếu họ mù quáng đặt tên cô ấy là Elizabeth, Nellie hay Muriel, cô ấy vẫn chỉ là Lavendar mà thôi, tớ nghĩ thế. Cái tên đó gợi nhớ đến hương vị ngọt ngào, vẻ duyên dáng xưa cũ và trang phục bằng lụa bồng bềnh. Thế mà tên của tớ thì đầy mùi bánh mì bơ, mụn vá và việc nhà.”
“Ồ, tớ không nghĩ vậy đâu,” Diana nói. “Đối với tớ, tên Anne rất oai nghiêm như một vị nữ hoàng. Nhưng nếu cậu có tên là Kerrenhappuch thì tớ cũng yêu cái tên đó. Tớ nghĩ người thế nào thì tên sẽ đẹp hay xấu như thế ấy. Giờ thì tớ chẳng chịu được những cái tên như Josie hay Gertie, nhưng trước khi quen mấy đứa con gái nhà Pye, tớ từng nghĩ chúng rất đẹp.”
“Đó là một ý tưởng thật đáng yêu, Diana ạ,” Anne hào hứng. “Sống sao để cho tên mình đẹp lên, dẫu ban đầu nó không được đẹp cho lắm... khiến nó tượng trưng cho điều gì đó thật đáng yêu và dễ chịu trong suy nghĩ của người khác mà họ không cảm nhận được từ riêng mỗi cái tên. cảm ơn Diana.”