Bạch Dạ Hành

Chương 1 : Chương I

Ngày đăng: 09:14 18/04/20


1

Ra khỏi ga Kintetsu Fuse, Sasagaki Junzo men theo đường sắt đi thẳng

về phía Tây. Đã sang tháng Mười mà trời vẫn oi bức khó chịu, mặt đất

cũng khô khốc. Mỗi khi có xe tải chạy vụt qua, bụi đất cuốn lên táp cả

vào mặt. Ông nhíu mày, đưa tay dụi mắt, thả những bước không thể nói là

nhẹ nhàng. Lẽ ra hôm nay ông không phải đi làm. Ông định sẽ thong thả

đọc sách vì đã lâu lắm rồi không được động đến sách vở gì cả. Ông còn

đặc biệt để dành cuốn sách mới của Matsumoto Seicho cho ngày hôm nay.



Công viên xuất hiện ở phía bên phải đường, rộng đủ để cùng một lúc tổ chức được hai trận bóng chày kiểu ba chốt. Mấy trò chơi thường thấy như cầu chui, đu quay, cầu trượt... đều có cả. Đây là công viên lớn nhất

trong khu vực, tên chính thức là Masumi. Đằng sau công viên có một tòa

nhà bảy tầng, thoạt nhìn hết sức bình thường, nhưng Sasagaki biết, bên

trong hầu như trống không. Trước khi được điều đến Sở Cảnh sát Osaka,

ông đã công tác ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse quản hạt chính khu vực này.

Những kẻ hóng chuyện, rất nhanh, đã tụ tập thành một đám đông trước tòa

nhà, mấy chiếc xe cảnh sát đậu ở đó hầu như bị đám người ấy vây kín.

Sasagaki không đi thẳng về phía tòa nhà, mà rẽ sang con đường phía trước công viên. Từ chỗ rẽ, đi đến cửa hàng thứ năm thì gặp tấm biển “Bánh

mực nướng”. Mặt tiền cửa hàng rộng hơn mét tám. Quầy nướng bánh hướng ra đường, phía sau có một người đàn bà to béo ngoài năm mươi tuổi đang đọc báo. Bên trong hình như bán cả đồ ăn vặt, nhưng không thấy bóng dáng

đứa trẻ nào.



“Bà chủ, nướng cho tôi một cái.” Sasagaki cất tiếng gọi. Người đàn bà vội gấp tờ báo lại. “Vâng, xong ngay, xong ngay đây.”



Bà ta đứng lên, đặt tờ báo xuống ghế. Sasagaki ngậm một điếu Peace,

bật diêm châm thuốc, đưa mắt nhìn tờ báo, bắt gặp cái tít “Bộ Y tế, Lao

động và Phúc lợi công bố kết quả kiểm nghiệm hàm lượng thủy ngân trong

sản phẩm thủy hải sản trên thị trường ”, bên cạnh có một hàng chữ nhỏ

hơn, “Dù ăn một lượng cá lớn vẫn dưới mức cho phép”.



Hồi tháng Ba, tòa án đã đưa ra phán quyết cuối cùng cho bệnh Minamata ở tỉnh Kumamoto - cùng với bệnh Minamata ở tỉnh Niigata, bệnh suyễn ở

thành phố Yokkaichi, bệnh Itai-itai ở tỉnh Toyama, được gọi chung là

“Bốn chứng bệnh lớn do ô nhiễm môi trường”. Kết quả, bên thắng kiện đều

là nguyên đơn. Điều này khiến dân chúng trở nên quan tâm hơn đến các vấn đề ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, ngày càng nhiều người nghi ngại rằng

các loại cá họ thường ăn đã bị nhiễm độc thủy ngân hoặc PCB.



Mực chắc không có vấn đề gì đâu nhỉ? Sasagaki nhìn tờ báo, thầm nhủ.



Hai miếng sắt dùng để nướng bánh mực gắn với nhau bằng bản lề, ở giữa kẹp con mực đã tẩm bột và trứng, được đặt lên bếp làm nóng. Mùi mực

nướng tỏa ra kích thích cảm giác thèm ăn của Sasagaki. Sau khi làm nóng

đủ độ, bà chủ mở kẹp sắt, cái bánh giòn xốp, tròn tròn dẹt dẹt dính trên một miếng sắt. Bà phết lên đó một lớp xốt mỏng, gập lại, sau đó bọc

bằng tờ giấy màu nâu, buông một tiếng “Xong rồi” và đưa cho khách.

Sasagaki liếc mắt nhìn tấm biển đề “Bánh mực nướng bốn mươi yên” rồi trả tiền. Bà chủ niềm nở nói, “Cảm ơn.” Sau đó cầm tờ báo lên, lại ngồi

xuống ghế. Sasagaki đang định đi thì một người đàn bà đứng tuổi dừng lại trước cửa hàng, cất tiếng chào bà chủ. Trên tay bà ta xách cái làn, có

vẻ là một bà nội trợ ở gần đây.



“Đằng kia đang ồn ào lắm, có phải xảy ra chuyện gì không nhỉ?” Bà ta chỉ tay về phía tòa nhà hỏi.



“Hình như có chuyện đấy, vừa nãy có nhiều xe cảnh sát đến lắm, chắc là có đứa trẻ nào bị thương.” Bà chủ nói.



“Trẻ con à?” Sasagaki quay đầu lại hỏi, “Trong ấy sao lại có trẻ con?”



“Nó đã thành sân chơi của bọn trẻ lâu rồi. Tôi đã lo sớm muộn gì cũng có đứa bị thương mà, quả nhiên xảy ra chuyện, không phải sao?”



“Ừm, trong tòa nhà ấy thì chơi được gì chứ?”



“Ai mà biết chúng nó chơi gì! Tôi thấy cần phải sửa sang lại từ lâu rồi, nguy hiểm quá.”



Ăn xong cái bánh mực nướng, Sasagaki đi về phía tòa nhà.



Bà chủ cửa hàng phía sau lưng ông, chắc hẳn sẽ cho rằng ông là một tay trung niên nhàn rỗi, thích hóng chuyện.



Cảnh sát chăng dây phía trước tòa nhà để ngăn những người tò mò. Thấy Sasagaki chui qua sợi dây vàng, một viên cảnh sát nhìn ông bằng ánh mắt dọa nạt, ông bèn chỉ tay lên ngực, ý bảo phù hiệu cảnh sát của mình ở

đây. Viên cảnh sát hiểu được ý nghĩa của động tác ấy, bèn đưa mắt chào.

Trong tòa nhà có một nơi tương tự tiền sảnh, theo thiết kế ban đầu có lẽ để lắp cửa kính lớn, nhưng hiện chỉ được che chắn tạm thời bằng các tấm ván ép và gỗ thanh. Một phần ván ép đã được gỡ đi, để tiện việc ra vào. Sau khi chào viên cảnh sát gác cửa, Sasagaki đi thẳng vào trong. Không

ngoài dự liệu của ông, bên trong hết sức tối tăm, không khí phảng phất

một thứ mùi pha tạp giữa nấm mốc và bụi. Ông đứng yên, cho tới khi cặp

mắt thích nghi với bóng tối. Có tiếng nói chuyện không hiểu vẳng lại từ

chỗ nào. Một lúc sau, khi đã dần dần phân biệt được cảnh tượng xung

quanh, Sasagaki mới biết nơi mình đang đứng có lẽ vốn là sảnh đợi thang

máy, vì bên phải là hai cánh cửa thang máy nối tiếp nhau, trước cửa chất đầy vật liệu xây dựng và thiết bị điện. Trước mặt ông là tường, nhưng

có khoét một số lớn hình chữ nhật, phía bên kia tối om chẳng trông thấy

gì, có lẽ là bãi đỗ xe theo dự kiến ban đầu. Bên trái là một căn phòng,

lắp một cánh cửa sần sùi bằng gỗ dán, cảm giác như thể chỉ gá vội vào

cho có, bên trên viết nguệch ngoạc hàng chữ “Cấm vào” bằng phấn, có lẽ

là chữ của người phụ trách thi công.



Cửa mở, hai người đàn ông bước ra. Sasagaki biết họ. Cả hai đều là

cảnh sát hình sự cùng tổ với ông. Trông thấy Sasagaki, họ liền dừng

chân.



“Ồ, vất vả quá. Chẳng mấy khi được kỳ nghỉ, cậu đúng là đen đủi

thật.” Một người cất tiếng nói với Sasagaki. Ông ta lớn hơn Sasagaki hai tuổi. Tay cảnh sát trẻ còn lại mới được cử đến tổ điều tra này chưa đầy một năm.



“Từ sáng tôi đã có dự cảm không lành. Mấy thứ trực giác kiểu này đâu

cần phải chuẩn thế chứ.” Nói xong, Sasagaki lại hạ giọng hỏi: “Tâm trạng ông anh thế nào?”



Người kia chau mày, xua tay. Tay cảnh sát trẻ bên cạnh cười gượng.



“Cũng chẳng trách, ông anh vừa mới nói muốn nghỉ ngơi thư giãn một

chút, liền xảy ra chuyện thế này. Giờ bên trong đang làm gì đấy?”



“Giáo sư Matsuno vừa mới đến.”



“Ồ, vậy à?”



“Thôi, bọn tớ phải đi xem xung quanh một chút.”



“Ừm, hai người đi nhé.”



Chắc là được lệnh ra ngoài đi lấy lời khai. Sasagaki nhìn họ bước xa

dần, rồi xỏ găng tay, chậm rãi mở cửa. Căn phòng rộng khoảng mười lăm

chiếu. Nhờ ánh mặt trời rọi vào qua kính cửa sổ nên ở đây không tối tăm

như chỗ sảnh đợi thang máy. Các nhân viên điều tra tập trung bên cạnh

bức tường đối diện với cửa sổ. Có mấy gương mặt lạ, chắc là người của

Phòng Cảnh sát Tây Fuse quản hạt khu vực này, còn lại đều là người quen

cũ. Tổ trưởng Nakatsuka, cũng là người chơi thân nhất với Sasagaki, liếc thấy ông đầu tiên. Ông ta để đầu húi cua, đeo kính gọng vàng, nửa phía

trên mắt kính có màu tím nhạt. Ngay cả khi cười, nếp nhăn giữa hai chân

mày ông ta cũng không bao giờ biến mất. Nakatsuka không nói “Vất vả

quá!” hay “Sao đến muộn vậy?” mà chỉ khẽ hất hàm, ý bảo ông qua đó.

Sasagaki liền bước tới.



Trong phòng chẳng có món đồ nội thất nào ra hồn, sát tường kê một cái xô pha giả da màu đen, ngồi dồn lại có thể chứa được ba người lớn. Xác

chết nằm ngay trên đó, một người đàn ông. Giáo sư Matsuno Hidetomi thuộc đại học Y Kinki đang kiểm tra cái xác. Ông làm nghề pháp y ở Osaka này

đã hơn hai mươi năm, Sasagaki vươn cổ ra phía trước, quan sát cái xác.

Người chết khoảng bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi, cao chưa đến một mét

bảy. So với chiều cao, thân hình ông ta thuộc dạng béo, trên người mặc

áo khoác màu nâu, không thắt cà vạt, quần áo có vẻ đều là hàng cao cấp.

Nơi ngực có vết máu màu đỏ thẫm đường kính khoảng mười xen ti mét. Ngoài ra, còn có mấy vết thương khác nhưng không có hiện tượng xuất huyết

nghiêm trọng. Sasagaki nhận thấy không có dấu hiệu vật lộn. Người chết

quần áo chỉnh tề, không nhàu nát, mái tóc chải lật ra sau cũng gần như

không rối.



Giáo sư Matsuno vóc người thấp bé đứng dậy, quay lại phía các điều tra viên.



“Bị giết, không thể sai được.” Ông nói với giọng khẳng định, “Có năm

vết đâm. Hai vết ở ngực, ba vết ở vai. Nhát trí mạng có lẽ là vết đâm

bên dưới ngực trái, chếch sang phía trái xương ngực mấy xen ti mét. Hung khí hẳn đã xuyên qua khe xương sườn, đâm thẳng vào tim.”



“Chết ngay lập tức à?” Nakatsuka hỏi.



“Đại khái chết trong vòng khoảng một phút, tôi nghĩ là máu chảy ra từ động mạch vành ép lên tim, gây ra hội chứng chèn ép tim cấp.”



“Liệu máu có bắn lên người hung thủ không?”



“Không, tôi nghĩ chắc là không có mấy.”



“Hung khí thì sao?”



Giáo sư trề môi dưới, trầm ngâm suy nghĩ một thoáng mới tiếp tục, “Là một lưỡi dao mảnh và sắc nhọn, có thể còn mảnh hơn dao gọt hoa quả. Tóm lại không phải dao phay hay dao găm.”



Từ đoạn hội thoại này, Sasagaki biết rằng chưa tìm thấy hung khí.



“Dự đoán thời gian tử vong vào khoảng...?” Câu hỏi này là của Sasagaki.



“Hiện tượng thi thể cứng lại sau khi chết đã lan khắp toàn thân, vả

lại những vết đốm trên xác cũng không dịch chuyển nữa, giác mạc tương

đối đục, có lẽ đã chết được khoảng mười bảy tiếng hoặc gần một ngày rồi, phải xem kết quả giải phẫu mới chuẩn xác được.”



Sasagaki nhìn đồng hồ, giờ là hai giờ bốn mươi phút chiều, trừ ngược

thời gian, nạn nhân có lẽ bị sát hại vào khoảng ba giờ chiều đến mười

giờ tối ngày hôm qua.



“Vậy nên đưa đi giải phẫu ngay.” Nakatsuka vừa nêu ý kiến, giáo sư Matsuno cũng tán thành, “Vậy là tốt nhất.”



Lúc này, viên cảnh sát hình sự trẻ tuổi Koga bước vào. “Vợ nạn nhân đến rồi.”



“Rốt cuộc cũng đến. Vậy thì để chị ta nhận mặt trước đã.



“Dẫn vào đây đi!”



Koga gật đầu trước chỉ thị của Nakatsuka, xoay người đi ra.



Sasagaki hỏi nhỏ viên cảnh sát hình sự ít tuổi hơn đứng bên cạnh, “Đã biết nhân thân nạn nhân rồi à?”



Viên cảnh sát khẽ gật đầu. “Trên người ông ta có bằng lái xe và danh thiếp, là ông chủ một tiệm cầm đồ ở gần đây.”



“Tiệm cầm đồ? Bị lột mất gì?”



“Không rõ, nhưng vẫn chưa tìm thấy ví tiền.”



Có tiếng động, Koga đã quay trở lại, anh ngoảnh mặt ra phía sau nói

“Mời chị vào”. Mấy viên cảnh sát đều tự động lùi xa khỏi xác chết hai ba bước.



Sau lưng Koga xuất hiện một phụ nữ. Thứ đầu tiên đập vào mắt Sasagaki là màu cam rực rỡ, người phụ nữ này mặc một chiếc váy liền thân kẻ ca

rô hai màu đen và cam, dưới chân đi một đôi giày gót cao ngót nghét mười phân. Ngoài ra, mái tóc dài cũng được chải chuốt hoàn hảo, cứ như vừa

mới bước ra khỏi tiệm làm tóc vậy. Chị ta đưa cặp mắt to được nhấn nhá

bằng lớp phấn trang điểm dày về phía chiếc xô pha cạnh tường, giơ hai

tay bịt miệng, nấc lên rồi sững lại trong giây lát. Mấy viên cảnh sát

đều biết rõ, trong tình huống này có nói gì cũng vô ích, người nào người nấy đều lẳng lặng quan sát diễn biến. Cuối cùng, chị ta bắt đầu chầm

chậm nhích lại gần xác chết, dừng lại trước xô pha, cúi đầu nhìn người

đàn ông nằm trên đó. Đến cả Sasagaki cũng thấy rõ, cằm chị ta đang khẽ

run lên.



“Có phải chồng chị không?” Nakatsuka hỏi.



Chị ta không trả lời, hai tay bưng lấy gò má, rồi chầm chậm đưa lên

che kín toàn bộ gương mặt, hai đầu gối khuỵu xuống như thể không chống

đỡ nổi thân thể, quỳ sụp xuống đất. Tựa như đang diễn kịch vậy, Sasagaki nghĩ.



Tiếng khóc thút thít vang lên trong lòng bàn tay chị ta.



2



Nạn nhân Kirihara Yosuke là ông chủ của tiệm cầm đồ

Kirihara, cửa tiệm kiêm tư gia cách hiện trường khoảng một cây số. Sau

khi vợ nạn nhân là Kirihara Yaeko xác nhận nhân thân, xác chết nhanh

chóng được đưa đi khỏi hiện trường. Sasagaki lại giúp mấy người trong tổ giám định chuyển cái xác lên cáng. Lúc này, có một vật thu hút sự chú ý của ông.



“Có lẽ nạn nhân bị sát hại sau khi ăn no.” ông lẩm bẩm.



“Sao cơ ạ?” Koga sau lưng ông hỏi lại.



“Nhìn cái này đi!” Sasagaki chỉ vào sợi dây lưng của người bị hại, “Cậu xem, lỗ xỏ thắt lưng nới ra hai nấc so với bình thường.”



“À, quả vậy.”



Kirihara Yosuke đeo thắt lưng hiệu Valentino màu nâu. Trên sợi dây

lưng vẫn còn dấu vết của khóa gài ở lỗ xỏ khóa thứ năm tính từ đuôi dây

lưng, chứng tỏ bình thường ông ta vẫn sử dụng lỗ xỏ này. Thế nhưng, xác

chết hiện giờ lại xỏ khóa gài ở lỗ thứ ba. Sasagaki dặn một nhân viên

giám định trẻ đứng bên cạnh chụp ảnh phần ấy lại. Sau khi cái xác được

chuyển đi, các nhân viên điều tra tham gia khám nghiệm hiện trường cũng

lục tục rời đi thu thập chứng cứ. Những người ở lại, ngoài các nhân viên giám định ra, chỉ còn Sasagaki và Nakatsuka.



Nakatsuka đứng ở chính giữa phòng, đảo mắt nhìn khắp xung quanh một

lượt nữa. Ông chống tay trái vào hông, tay phải xoa xoa lên má, đây là

thói quen mỗi khi ông đứng suy nghĩ điều gì đó.



“Sasagaki” Nakatsuka nói, “Cậu thấy sao? Cậu nghĩ hung thủ là kẻ như thế nào?”



“Hoàn toàn không đoán ra được.” Ánh mắt Sasagaki cũng quét quanh một

vòng, “Hiện giờ cùng lắm chỉ biết đó là người quen với nạn nhân.”



Quần áo, đầu tóc chỉnh tề, không có dấu vết ẩu đả, nhát đâm chính diện, chính là chứng cứ.



Nakatsuka gật đầu, vẻ hoàn toàn nhất trí, “Vấn đề là nạn nhân và hung thủ ở đây làm gì?”



Sasagaki quan sát kỹ mọi đồ vật trong gian phòng một lần nữa. Khi tòa nhà đang thi công, gian phòng này dường như được dùng làm văn phòng tạm thời. Cái xô pha màu đen mà xác chết nằm lên cũng là thứ được sử dụng

lúc đó. Ngoài ra, còn một chiếc bàn làm việc bằng sắt, hai cái ghế gấp

và một bàn họp gấp lại được, toàn bộ đều kê sát tường. Thứ nào cũng gỉ

sét, bên trên phủ một lớp bụi dày, thoạt nhìn như bị rải bột phấn lên

vậy. Công trình này đã bị tạm ngưng từ khoảng hai năm rưỡi trước. Ánh

mắt Sasagaki dừng lại ở một điểm trên bức tường cạnh chiếc xô pha. Miệng ống thông gió hình chữ nhật ở ngay bên dưới trần nhà, lẽ ra phải che

chắn bằng lưới kim loại, nhưng giờ đây không có gì cả. Nếu không có

đường ống thông gió, có lẽ cái xác còn được phát hiện muộn hơn nữa, bởi

vì người phát hiện ra xác chết đã vào căn phòng này qua đường ống thông

gió ấy. Theo lời của nhân viên điều tra Phòng Cảnh sát Tây Fuse, người

phát hiện ra cái xác là học sinh lớp ba của trường cấp I gần đây. Hôm

nay là thứ Bảy, ở trường chỉ học buổi sáng. Buổi chiều, cậu bé cùng bốn

người bạn vào tòa nhà này chơi. Bọn chúng không chơi mấy trò đuổi bắt

hay trốn tìm, mà coi hệ thống đường ống thông gió nối khắp tòa nhà là

một mê cung. Có lẽ, đối với bọn con trai, bò qua bò lại trong hệ thống

thông gió ngoằn ngoèo phức tạp đích thực là một trò chơi kích thích được tinh thần mạo hiểm trong chúng. Tuy không rõ luật chơi của chúng lắm,

nhưng hình như có một đứa giữa đường đã bò nhầm sang hướng khác. Cậu bé

ấy bị lạc khỏi chúng bạn, lo lắng bò khắp các đường ống thông gió, cuối

cùng đến được gian phòng này. Nghe nói, cậu bé ban đầu cũng không nghĩ

người đàn ông nằm trên xô pha đã chết, còn sợ khi mình chui ra khỏi ống

thông gió sẽ khiến ông ta thức giấc. Thế nhưng, người đàn ông vẫn nằm

yên bất động. Cậu bé lấy làm lạ, bèn rón rén lại gần, bấy giờ mới phát

hiện ra trên ngực ông ta có vết máu. Khoảng gần một giờ chiều thì cậu bé về nhà, kể lại chuyện ấy. Có điều, phải mất hai mươi phút sau người mẹ

mới tin lời con trai kể là thật. Theo ghi chép, thời gian báo án với

Phòng Cảnh sát Tây Fuse là một giờ ba mươi ba phút chiều.



“Tiệm cầm đồ...” Nakatsuka buột miệng, “Chủ tiệm cầm đồ có chuyện gì mà phải hẹn người ta gặp mặt ở nơi thế này nhỉ?”



“Chắc là không muốn bị người khác trông thấy, hoặc nếu bị nhìn thấy sẽ không hay ho gì.”



“Cứ cho là vậy thì cũng đâu nhất thiết phải chọn nơi thế này chứ, địa điểm có thể nói chuyện riêng tư, tránh được tai mắt người khác nhiều

lắm mà. Nếu thật sự sợ bị người khác trông thấy, chắc sẽ cố gắng tìm nơi nào cách xa nhà một chút, chẳng phải vậy sao?”



“Chính xác.” Sasagaki gật đầu, gãi gãi cằm, cảm nhận được mấy sợi râu cứng cọ vào lòng bàn tay. Hôm nay vội đi, ông thậm chí chẳng kịp cạo

râu.



“Chị vợ ông ta ăn mặc cũng lòe loẹt thật.” Nakatsuka nêu lên một chủ

đề khác, nhắc tới vợ của Kirihara Yosuke, Yaeko, “Chắc khoảng hơn ba

mươi gì đấy, nạn nhân năm nay năm mươi hai tuổi, chênh lệch cũng khá xa

nhỉ.”



“Chắc chị ta đã từng làm cái nghề đó.” Sasagaki khẽ đáp.



“Ừm...” Nakatsuka gật đầu với cái cằm chẻ, “Đàn bà thật là đáng sợ!

Hiện trường cách nhà có mấy bước chân, vậy mà còn phải trang điểm xong

mới đến. Có điều, bộ dạng khóc lóc của chị ta khi nhìn thấy xác chồng

mới thật là hay ho.”



“Kiểu khóc với cách trang điểm đều hơi quá khoa trương, phải không?”



“Tôi không nói vậy đâu nhé.” Nakatsuka nhe răng cười đầy ý tứ, rồi

lập tức lấy lại vẻ nghiêm túc, “Chắc là cũng thẩm vấn xong người đàn bà

đó rồi, Sasagaki, ngại quá, có thể phiền cậu đưa chị ta về nhà không?”



“Được.” Sasagaki cúi đầu chào, đoạn xoay người đi ra cửa.



Bên ngoài tòa nhà, đám người hóng chuyện đã bớt đi nhiều, nhưng bắt

đầu xuất hiện bóng dáng các phóng viên, hình như cả người của đài truyền hình cũng có mặt. Sasagaki đưa mắt nhìn về phía mấy xe cảnh sát đậu

trước cửa tòa nhà, Kirihara Yaeko đang ngồi trên ghế sau chiếc xe thứ

hai trước mặt ông. Bên cạnh chị ta là cảnh sát hình sự Kobayashi, Koga

ngồi ở ghế phụ lái. Sasagaki bước đến gõ lên cửa kính sau, Kobayashi mở

cửa xe bước ra.



“Tình hình thế nào?” Sasagaki hỏi.



“Đã hỏi sơ qua, vừa mới xong. Nhưng nói thật, trạng thái tinh thần

của chị ta vẫn không ổn định lắm.” Kobayashi lấy tay che miệng hạ giọng.



“Chị ta xác nhận các đồ tùy thân chưa?”



“Xác nhận rồi. Quả nhiên, mất ví tiền, và bật lửa nữa.”



“Bật lửa?”



“Nghe nói là hàng cao cấp của hãng Dunhill.”



“Ừm. Thế, chồng chị ta mất tích từ lúc nào?”



“Chị ta nói, chồng mình ra ngoài khoảng hai ba giờ chiều hôm qua,

không biết là đi đâu. Đến sáng hôm nay vẫn chưa thấy về nên chị ta rất

lo lắng, đang định đợi thêm chút nữa nếu vẫn không thấy sẽ trình báo

cảnh sát, thì nhận được thông báo phát hiện ra thi thể chồng.”



“Ai đó đã gọi cho chồng chị ta à?”



“Chị ta bảo không biết, không nhớ trước lúc ra khỏi nhà chồng mình có nhận điện thoại hay không.”



“Tâm trạng của chồng chị ta lúc ra khỏi nhà như thế nào?”



“Thấy bảo không có gì khác thường.”



Sasagaki lấy ngón trỏ gãi má, hoàn toàn không tìm được đầu mối từ những lời khai của chị ta.



“Xem ra chị ta cũng không có manh mối gì về hung thủ rồi.”



“Đúng thế.” Kobayashi hơi nhíu mày.



“Đã hỏi xem chị ta có biết gì về tòa nhà này chưa?”



“Hỏi rồi. Trước đây chị ta từng biết ở đây có một tòa nhà, nhưng

không rõ là tòa nhà gì, hôm nay mới lần đầu tiên đặt chân vào bên trong, cũng chưa bao giờ nghe chồng mình nhắc đến nơi này cả.”



Sasagaki bất giác cười chua chát. “Từ đầu đến cuối toàn là câu phủ định cả à.”



“Tôi xin lỗi.”



“Không phải lỗi của cậu.” Sasagaki vỗ vỗ lên ngực người đồng nghiệp trẻ, “Tôi sẽ đưa chị ta về, bảo Koga lái xe, được không?”



“Vâng, mời anh.”



Sasagaki lên xe, bảo Koga lái về phía nhà Kirihara.



“Đi đường vòng một chút, đám báo chí vẫn chưa phát hiện ra nhà nạn nhân ở gần đây.”



“Vâng.” Koga đáp.



Sasagaki xoay người hướng về phía Yaeko ngồi bên cạnh, chính thức tự

giới thiệu. Yaeko chỉ khẽ gật đầu, đoán chừng cũng không muốn tốn công

nhớ họ tên cảnh sát làm gì.



“Ở nhà giờ có người không?”



“Có, có người đang trông cửa tiệm, con trai tôi cũng ở trường về rồi.” Chị ta đáp mà không ngẩng đầu lên.



“Chị có con à, mấy tuổi rồi?”



“Đang học lớp năm.”



Vậy là khoảng mười đến mười một tuổi. Sasagaki nhẩm tính, rồi lại

quan sát Yaeko. Tuy đã được lớp trang điểm che phủ, nhưng có thể thấy da chị ta đã bắt đầu khô ráp, những nếp nhăn li ti cũng rất rõ ràng. Vì

vậy chẳng có gì lạ khi con chị ta lớn nhường ấy.



“Nghe nói hôm qua chồng chị ra ngoài mà không nói gì. Điều này có thường xuyên không?”



“Cũng có, đều là đi uống rượu. Hôm qua tôi cũng tưởng thế, nên không để tâm cho lắm.”



“Đi đến sáng mới về à?”



“Hiếm lắm.”



“Trường hợp như vậy ông nhà có gọi điện về không?”



“Anh ấy ít khi gọi điện. Không biết bao nhiêu lần tôi nhắc anh ấy về

muộn thì phải gọi điện báo, nhưng anh ấy chỉ hứa miệng mà chẳng bao giờ

gọi cả, tôi cũng quen rồi. Có điều, không bao giờ tôi ngờ được anh

ấy...” Yaeko đưa tay bụm miệng lại.



Chiếc xe chở bọn Sasagaki đi lòng vòng một lúc, rồi dừng lại bên cạnh cột điện có ghi Oe-Sanchome. Những căn biệt thự liền kề nằm hai bên con đường nhỏ hẹp.



“Phía đằng kia.” Koga chỉ qua lớp kính chắn gió phía trước. Cách chỗ

họ khoảng hai mươi mét, xuất hiện tấm biển “Tiệm cầm đồ Kirihara”. Phía

truyền thông hình như vẫn chưa nắm được thông tin về gốc tích của người

bị hại, ngoài cửa tiệm không thấy bóng ai.



“Tôi đưa chị Kirihara về nhà, cậu về trước đi.” Sasagaki dặn dò Koga.



Cửa cuốn của tiệm cầm đồ kéo xuống cao ngang mặt Sasagaki. Ông đi

theo sau Yaeko, cúi người chui qua cửa cuốn. Phía sau cánh cửa là tủ

trưng bày và lối vào. Trên cánh cửa kính mờ ở lối vào có dòng chữ màu

vàng “Kirihara” viết bằng bút lông. Yaeko mở cửa đi vào, Sasagaki đi

phía sau.



“À, bà về rồi.” Người đàn ông ở sau quầy cất tiếng chào. Người này

tuổi trạc tứ tuần, thân hình gầy gò, cằm nhọn, mái tóc đen tuyền rẽ ngôi bảy ba đều tăm tắp.



Yaeko thở dài, ngồi xuống một chiếc ghế có lẽ dùng để tiếp khách.



“Sao rồi ạ?” Người đàn ông kia hỏi, ánh mắt dịch chuyển qua lại giữa chị ta và Sasagaki.



Yaeko đưa tay bưng mặt nói, “Đúng là anh ấy.”



“Sao lại thế được?” Người đàn ông sầm nét mặt. Giữa hai chân mày xuất hiện một vết hằn sâu, “Đúng là... ông ấy đã bị giết?”



Chị ta khẽ gật đầu, “Ừm.”



“Sao lại thế được? Sao lại xảy ra chuyện thế này?” Người đàn ông bụm

miệng, cúi gầm mặt xuống, tựa như đang sắp xếp lại mạch suy nghĩ, không

ngừng chớp mắt.



“Tôi là Sasagaki, Sở Cảnh sát Osaka. Tôi thực sự rất lấy làm tiếc về

chuyện này.” Sasagaki giơ phù hiệu cảnh sát ra và tự giới thiệu, “Anh

là...”



“Tôi họ Matsuura, làm việc ở đây.” Người đàn ông mở ngăn kéo tủ, lấy ra một tấm danh thiếp.



Sasagaki cúi đầu đáp lễ, đón lấy tấm danh thiếp từ tay đối phương.

Lúc này, ông nhìn thấy trên ngón út bàn tay phải của người đàn ông đeo
“Ừm, đi thôi.” Sasagaki dụi điếu thuốc Peace vào gạt tàn, nhổm người đứng dậy.



Terasaki vừa mở cửa xe, Koga bèn cất tiếng gọi. Terasaki ngạc nhiên

trợn tròn hai mắt, kế đó lại trông thấy Sasagaki và Kanamura, nét mặt

anh ta liền cứng đờ. Khi cảnh sát nói muốn hỏi vài vấn đề, Terasaki tỏ

ra tương đối hợp tác. Họ hỏi anh ta xem có muốn tìm cửa tiệm nào đó ngồi không, nhưng Tarasaki nói ngồi trong xe luôn cũng được. Vậy là, bốn

người bèn chui vào chiếc xe hàng nhỏ. Terasaki ngồi trên ghế lái, ghế

phụ là Sasagaki, Koga và Kanamura ngồi ghế sau. Trước tiên Sasagaki hỏi

anh ta có biết vụ án ông chủ tiệm cầm đồ ở Oe bị sát hại hay không,

Terasaki nhìn thẳng về phía trước, gật đầu “Tôi xem trên báo và ti vi

rồi. Nhưng vụ án đó thì liên quan gì tới tôi chứ?”



“Nơi nạn nhân Kirihara xuất hiện lần cuối cùng là nhà của chị Nishimoto. Tất nhiên là anh quen chị Nishimoto đúng không?”



Có thể thấy rõ Terasaki đang nuốt nước bọt. Anh ta đang nghĩ xem phải trả lời như thế nào.



“Chị Nishimoto... ý anh là, người phụ nữ làm việc trong tiệm mì udon đó hả? Đúng, có thể coi như tôi quen biết chị ấy.”



“Chúng tôi cho rằng, chị Nishimoto có thể liên quan đến vụ án này.”



“Chị Nishimoto? Sao có thể được chứ?” Terasaki nhếch miệng cười.



“Chà, có vấn đề gì sao?”



“Dĩ nhiên, chị ấy làm sao lại liên quan đến một vụ án mạng như thế được.”



“Hai người chỉ coi như có quen biết, mà anh lại bênh chị ta nhỉ!”



“Tôi đâu có bênh gì chứ.”



“Có người thường thấy một chiếc xe chở hàng màu trắng ở gần khu chung cư Yoshida, còn nói người lái xe thường xuyên ra vào nhà chị Nishimoto. Anh Terasaki, có phải đó là anh không?”



Câu hỏi của Sasagaki rõ ràng đã khiến Terasaki hết sức bối rối. Anh ta liếm liếm môi, nói, “Tôi tìm chị ấy vì công việc thôi.”



“Công việc?”



“Tôi giao các thứ chị ấy mua tới, mấy thứ kiểu như đồ trang điểm và thuốc tẩy rửa, có vậy thôi.”



“Anh Terasaki, đừng nói dối nữa. Chuyện này chỉ cần điều tra một chút là biết ngay. Người nhìn thấy nói, anh đến chỗ chị Nishimoto khá thường xuyên, không phải vậy sao? Đồ trang điểm và thuốc tẩy rửa cần phải đưa

thường xuyên như thế à?” Terasaki khoanh tay, mắt nhắm lại. Chắc đang

suy nghĩ xem nên trả lời thế nào.



“Anh Terasaki này, giờ mà anh nói dối, thì sẽ phải nói dối mãi. Chúng tôi sẽ tiếp tục giám sát anh chặt chẽ, chờ cho đến khi nào anh gặp chị

Nishimoto. Như vậy anh sẽ xử lý thế nào? Anh định cả đời này không gặp

chị ấy nữa sao? Anh làm được không? Phiền anh nói thực cho chúng tôi

biết, quan hệ giữa anh và chị Nishimoto có gì đặc biệt?”



Terasaki vẫn trầm ngâm một lúc lâu. Sasagaki không nói gì, chỉ lặng lẽ quan sát phản ứng của đối phương.



Cuối cùng, Terasaki thở hắt ra một hơi, mở mắt, “Tôi nghĩ như vậy

cũng không có vấn đề gì. Tôi độc thân, còn chồng cô ấy cũng chết rồi.”



“Có thể hiểu đó là quan hệ nam nữ không?”



“Chúng tôi qua lại một cách nghiêm túc.” Giọng Terasaki hơi rít lên.



“Bắt đầu từ khi nào?”



“Cả điều đó cũng phải nói à?”



“Xin lỗi, để làm tư liệu tham khảo thôi.” Sasagaki nở một nụ cười điềm đạm.



“Khoảng nửa năm trước.” Terasaki đanh mặt lại trả lời.



“Vì duyên cớ gì mà bắt đầu quan hệ?”



“Chẳng có gì đặc biệt cả. Thường gặp nhau trong cửa tiệm, rồi thân.”



“Chị Nishimoto kể những gì về ông Kirihara với anh?”



“Chỉ nói, đó là ông chủ tiệm cầm đồ cô ấy hay tới.”



“Chị Nishimoto có nhắc đến việc ông ấy thỉnh thoảng đến nhà mình không?”



“Cô ấy nói, ông ta có đến vài lần.”



“Nghe chị ấy nói thế, anh thấy thế nào?”



Câu hỏi của Sasagaki khiến Terasaki nhíu mày lại tỏ vẻ không vui, “Ý anh là sao?”



“Anh không cho rằng ông Kirihara có ý đồ gì khác sao?”



“Nghĩ mấy chuyện ấy thì ích gì? Fumiyo chẳng bao giờ để ý đến ông ta cả.”



“Nhưng chị Nishimoto hình như đã nhận khá nhiều sự chiếu cố của ông

Kirihara, nói không chừng cũng nhận cả trợ giúp về mặt tiền bạc nữa. Như vậy, nếu đối phương bức bách quá, chẳng phải là rất khó từ chối sao?”



“Chuyện này tôi chưa bao giờ nghe nói tới. Xin hỏi, rốt cuộc ông muốn nói gì vậy?”



“Chúng tôi chỉ suy luận theo lẽ thường thôi, một người đàn ông thường xuyên ra vào nhà người phụ nữ anh có qua lại, người phụ nữ đó vì thường xuyên nhận được ưu đãi đặc biệt từ ông ta, nên cũng không thể tiếp đón

qua loa có lệ. Về sau, người đàn ông ấy lại được đằng chân lân đằng đầu

cứ liên tục dồn ép, là bạn trai người phụ nữ đó, nếu biết chuyện này,

hẳn sẽ rất tức giận...”



“Ông muốn nói là vì vậy mà tôi nổi xung lên giết ông ta, phải không?

Xin ông đừng nói linh tinh nữa, tôi đâu có ngu đến mức đó.” Terasaki cao giọng, làm chấn động cả không gian chật hẹp bên trong chiếc xe chở hàng nhỏ.



“Đây thuần túy chỉ là suy đoán, tôi rất xin lỗi nếu như khiến anh khó chịu. Vậy, khoảng sáu đến bảy giờ tối ngày thứ Sáu, 12 tháng này, anh

đang ở đâu?”



“Điều tra chứng cứ ngoại phạm à?” Terasaki nhướng mắt. “Đúng vậy.”

Sasagaki cười cười với anh ta. Vì dạo này phim hình sự rất thịnh hành,

cụm từ “chứng cứ ngoại phạm” đã trở nên rất thông dụng.



Terasaki lấy một cuốn sổ nhỏ, mở phần lịch ngày ra. “Chiều tối ngày 12 tôi ở Toyonaka, đi đưa hàng cho khách.”



“Khoảng mấy giờ?”



“Tôi nghĩ, đến đó là khoảng sáu giờ.”



Nếu đây là sự thật, vậy thì anh ta có chứng cứ ngoại phạm. Chuyến này lại hụt nữa rồi, Sasagaki nghĩ. “Anh giao hàng cho khách chưa?”



“Chưa, hôm ấy bị lỡ hẹn với khách. Khách không có nhà, tôi kẹp danh thiếp ở cửa rồi trở về.”



“Khách không biết anh sẽ đến à?”



“Tôi có liên lạc rồi. Trước đó, tôi có nói qua điện thoại là ngày 12

sẽ tới, nhưng có vẻ tôi nói không rõ làm người ta không hiểu.”



“Nói như vậy, anh không gặp ai ở đó mà đã trở về luôn, phải không?”



“Đúng thế, nhưng tôi đã để lại danh thiếp.”



Sasagaki gật đầu thầm nghĩ, chuyện đó làm lúc nào chẳng được.



Sau khi hỏi Terasaki địa chỉ và số điện thoại của người khách kia, Sasagaki quyết định thả cho anh ta đi.



Về tổ chuyên án báo cáo xong, như thường lệ, Nakatsuka lại hỏi quan điểm của Sasagaki.



“Năm mươi năm mươi.” Sasagaki thành thực trả lời, “không có chứng cứ

ngoại phạm, lại có động cơ gây án. Nếu cùng Nishimoto Fumiyo bắt tay gây án, hẳn có thể tiến hành một cách thuận lợi. Chỉ có một điểm tương đối

kỳ lạ, nếu bọn họ đúng là hung thủ, vậy thì hành động tiếp sau đấy của

hai người này hình như hơi quá khinh suất thì phải. Nhưng Terasaki lại

vẫn như trước, cứ đến trưa là tới tiệm Fumiyo làm việc ăn mì udon. Điểm

này thì tôi nghĩ không thông được.”



Nakatsu lặng im lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Cặp môi khép chặt trễ xuống ở hai đầu, chứng minh ông cũng có chung ý kiến.



Cảnh sát tiến hành điều tra triệt để đối với Terasaki. Anh ta sống

một mình trong căn hộ thuê ở quận Hiremo, từng kết hôn, năm năm trước đã thỏa thuận ly hôn. Đánh giá của khách hàng đối với anh ta rất tốt, làm

việc nhanh nhẹn, yêu cầu khó khăn thế nào cũng đáp ứng được, giá cả lại

rất thấp. Đối với các chủ cửa hàng bán lẻ, anh ta là nhà cung cấp lý

tưởng. Đương nhiên, cũng không thể vì vậy mà nhận định anh ta không có

khả năng gây án mạng. Ngoài ra việc làm ăn của anh ta chỉ có thể coi là

gắng gượng chèo chống, véo chỗ này bù chỗ kia, lại càng khiến cảnh sát

chú ý hơn.



“Tôi nghĩ anh ta có ý định giết Kirihara vì ông này cứ bám riết lấy

Fumiyo, nhưng cũng có thể anh ta mờ mắt trước số tiền một triệu yên

Kirihara mang theo.” Viên cảnh sát điều tra tình hình kinh doanh của

Terasaki phân tích như vậy trong cuộc họp, đại đa số thành viên tổ

chuyên án cũng đồng tình.



Đã xác nhận xong việc Terasaki không có bằng chứng ngoại phạm. Điều

tra viên đã đến căn nhà mà anh ta nói là để lại danh thiếp, tìm hiểu

được chủ nhà hôm đó đi thăm họ hàng ở xa, mãi đến mười một giờ đêm mới

về. Trên cửa đúng là có gài một tấm danh thiếp của Terasaki, nhưng như

vậy chưa đủ để đoán định anh ta đến đây vào thời điểm nào. Ngoài ra đối

với câu hỏi Terasaki có hẹn trước vào ngày 12 hay không, bà chủ nhà đó

trả lời, “Anh ta nói sẽ đến vào một ngày nào đó trong khoảng thời gian

này, nhưng tôi không nhớ là có hẹn vào ngày 12.” Thậm chí chị ta còn

thêm một câu, “Tôi nhớ trong điện thoại có nói với anh Terasaki, ngày 12 tôi không rảnh.”



Lời khai này có ý nghĩa rất lớn. Nghĩa là, có thể cho rằng Terasaki

biết rõ khách hàng này không có nhà, nhưng sau khi gây án vẫn đến nhà

chị ta để lại danh thiếp, ý đồ ngụy tạo bằng chứng ngoại phạm.



Sự nghi ngờ của các điều tra viên đối với Terasaki, có thể nói đã ở mức báo động.



Thế nhưng, không có vật chứng nào hết. Trong các sợi lông, tóc thu

thập được ở hiện trường, không có sợi nào giống với của Terasaki, cả dấu vân tay cũng vậy. Không có lời chứng nào là đã nhìn thấy anh ta. Giả dụ Nishimoto Fumiyo và Terasaki là đồng phạm, hai người hẳn phải có liên

lạc với nhau, nhưng cảnh sát cũng không phát hiện được dấu vết gì của

việc này. Một vài cảnh sát giàu kinh nghiệm chủ trương bắt giam trước

rồi tiến hành thẩm vấn triệt để, có lẽ hung thủ sẽ cung khai. Nhưng

trong tình huống hiện nay, cảnh sát thực sự không thể xin được lệnh bắt.



7



Một tháng trôi qua mà không có tiến triển gì. Các thành

viên tổ chuyên án sau nhiều ngày ngủ lại cơ quan dần dần trở về nhà,

Sasagaki cũng ngâm mình trong chiếc bồn tắm lớn đã lâu không sử dụng của nhà mình. Ông và vợ sống trong khu căn hộ trước cửa ga Kintetsu Yao.

Katsuko, vợ ông lớn hơn ông ba tuổi. Hai người không có con.



Sáng sớm hôm sau, Sasagaki đang ngủ trong chăn thì bị tiếng ồn làm

thức giấc. Katsuko đang thay quần áo, kim đồng hồ vừa chỉ bảy giờ. “Sớm

vậy, mình làm gì thế? Định đi đâu à?” Sasagaki nằm trong chăn hỏi.



“À! Xin lỗi, đánh thức mình rồi. Em ra siêu thị mua đồ.”



“Mua đồ? Sớm thế à?”



“Không đi sớm xếp hàng, không khéo lại không kịp mất.”



“Không kịp? Mình mua gì thế?”



“Còn phải hỏi à? Dĩ nhiên là mua giấy vệ sinh rồi.”



“Giấy vệ sinh?”



“Hôm qua em cũng đi rồi. Quy định là mỗi người chỉ được mua một bịch, thực ra em cũng muốn gọi mình cùng đi đấy.”



“Mua nhiều giấy vệ sinh thế làm gì?”



“Không có thời gian giải thích với mình nữa, em đi trước đây.”

Katsuko khoác chiếc áo len lông cừu cài khuy lên rồi cầm ví tiền vội vội vàng vàng đi ra cửa. Sasagaki chẳng hiểu gì cả. Dạo gần đây trong đầu

ông chỉ nghĩ chuyện điều tra phá án, gần như không quan tâm trên thế

giới đang xảy ra chuyện gì. Ông có nghe là dầu mỏ bị thiếu, nhưng không

hiểu tại sao phải đi mua giấy vệ sinh, lại còn vừa sáng sớm đã đi xếp

hàng nữa.



Đợi Katsuko về phải hỏi kỹ mới được, ông thầm nhủ trong lòng rồi nhắm mắt lại. Chỉ một chốc sau, chuông điện thoại reo lên. Ông lật người

trong chăn, vươn tay với lấy chiếc điện thoại màu đen để ở cuối giường.

Đầu hơi nhức, hai mắt vẫn chưa mở ra được.



“A lô, Sasagaki nghe.”



Hơn mười giây sau, ông bật dậy khỏi đống chăn, cơn buồn ngủ đã hoàn toàn tan biến.



Cú điện thoại đó thông báo cái chết của Terasaki Tadao. Chết trên

đường cao tốc Osaka Kobe. Vòng cua không đủ rộng, húc vào dải phân cách, một trường hợp điển hình của việc ngủ gật khi lái xe. Lúc đó trên xe

chở hàng của anh ta có một lượng lớn xà phòng và thuốc tẩy rửa. Sau này

Sasagaki mới biết, sau giấy vệ sinh, dân chúng bắt đầu tranh nhau mua

tích trữ các mặt hàng này, vị khách hàng muốn nhập thêm, Terasaki đã

không ngủ nghỉ gì, đi khắp nơi thu xếp kiếm mối hàng.



Sasagaki và mấy người nữa đến nơi ở của Terasaki lục soát, định tìm

vật chứng liên quan đến vụ sát hại Kirihara Yosuke, nhưng không thể phủ

nhận, đó là một hành động uổng công phí sức. Dù có phát hiện gì chăng

nữa, thì hung thủ cũng không còn trên thế gian này. Không lâu sau đó,

một cảnh sát phát hiện ra vật chứng quan trọng bên trong thùng xe chở

hàng, chiếc bật lửa Dunhill, hình chữ nhật, góc cạnh rõ ràng. Mọi thành

viên tổ chuyên án đều nhớ rõ, Kirihara Yosuke cũng bị mất một cái y hệt

thế. Thế nhưng, trên chiếc bật lửa này không phát hiện ra vân tay của

Kirihara Yosuke. Nói chính xác hơn, trên đó không có vân tay của bất cứ

người nào... như thể đã được lau bằng vải hay thứ gì đó tương tự.



Cảnh sát cho Kirihara Yaeko xem chiếc bật lửa, nhưng chị ta chỉ hoang mang lắc đầu nói, giống thì giống thật đấy, song không thể khẳng định

có phải là vật của chồng mình hay không. Phía cảnh sát lòng như lửa đốt, lại gọi Nishimoto Fumiyo thẩm vấn, tìm đủ mọi cách khiến cô ta thừa

nhận. Viên cảnh sát phụ trách thẩm vấn thậm chí còn ngấm ngầm ám chỉ đã

xác nhận chiếc bật lửa đó đích thực là của Kirihara.



“Dù suy luận thế nào, thì Terasaki có thứ này cũng là một điều hết

sức kỳ lạ. Không phải cô lấy trên người nạn nhân đưa cho anh ta, thì là

Terasaki tự lấy, chỉ có hai khả năng này thôi. Rốt cuộc là thế nào? Cô

nói đi!” Viên cảnh sát phụ trách thẩm vấn đưa bật lửa cho Nishimoto

Fumiyo xem, ép cô ta phải khai nhận.



Nhưng Nishimoto vẫn một mực phủ nhận, thái độ không chút dao động.

Cái chết của Terasaki có lẽ khiến cô ta khá sốc nhưng từ thái độ của cô

ta, không hề nhận ra vẻ ngập ngừng do dự.



Nhất định có nhầm lẫn ở đâu đó, chúng ta đã đi vào một con đường hoàn toàn sai lầm... Sasagaki ở bên cạnh quan sát toàn bộ quá trình thẩm

vấn, tự nhủ.



8



Vừa đọc bản tin thể thao, Tagawa Toshio vừa nhớ lại trận

đấu tối qua, tâm trạng khó chịu lại một lần nữa cuộn trào. Đội Yomiuri

Giants thua rồi thì thôi, vấn đề là quá trình trận đấu ấy. Vào thời điểm quan trọng nhất, Nagashima lại không đánh được. Tay đánh bóng số 4 xưa

nay vẫn là trụ cột chống đỡ cho đội Giants luôn giành phần thắng, trong

suốt trận đấu hôm qua đã thể hiện hết sức nửa vời, khiến đám đông khán

giả sốt hết cả ruột. Vào thời điểm cần thiết nhất; anh ấy nhất định sẽ

không phụ lòng khán giả, đó mới là Nagashima Shigeo! Dù cú đánh có bị

tiếp sát thì cũng phải đánh một cú khiến các fan thỏa lòng, đó mới là

bản lĩnh đàn ông của người được gọi là Mr. Giant chứ!



Nhưng mùa bóng này lại rất bất thường. Không, hai ba năm trước đã

xuất hiện dấu hiệu rồi, nhưng Tagawa không muốn chấp nhận sự thực tàn

khốc ấy, mới cố ý lờ đi đến tận bây giờ. Anh luôn tự nói với mình,

chuyện này không thể xảy ra với Mr. Giants được. Thế nhưng, nhìn vào sự

thực trước mắt, dù là một fan trung thành của Nagashima từ thuở thiếu

thời, Tagawa vẫn buộc phải thừa nhận, bất cứ ai đến một ngày nào đó cũng phải già đi, dẫu tuyển thủ tài năng nổi tiếng đến mấy, cũng phải có

ngày rời xa sân bóng. Nhìn bức ảnh Nagashima nhíu chặt lông mày sau khi

bị “strike out”, Tagawa thầm nghĩ, có lẽ là năm nay rồi. Tuy mùa bóng

mới bắt đầu, nhưng cứ đà này, chưa đến mùa hè, mọi người chắc sẽ bắt đầu xôn xao bàn tán chuyện Nagashima giải nghệ. Tagawa có một dự cảm chẳng

lành, nếu đội Giants không thể đoạt chức vô địch, việc này rất có khả

năng, năm nay muốn giành chức vô địch thực sự quá khó. Tuy năm ngoái,

đội Giants đã đạt kỷ lục vô địch chín lần liên tiếp với khí thế áp đảo,

nhưng ai ai cũng thấy rõ như ban ngày, cả đội bóng đã bắt đầu mệt mỏi,

Nagashima chính là minh chứng cho điều đó. Lướt mắt xem qua bài báo nói

về trận thắng của đội Chumchi Dragons xong, Tagawa gập báo lại. Anh

ngước nhìn đồng hồ trên tường, đã bốn giờ hơn. Hôm nay chắc không có

khách nữa rồi, anh tự nhủ. Trước ngày phát lương, hiếm có người nào đến

trả tiền thuê phòng.



Đang há miệng ngáp vặt, anh chợt trông thấy phía sau cánh cửa kính

dán thông báo thấp thoáng bóng người. Nhìn cái chân lộ ra là biết không

phải người lớn. Chiếc bóng ấy đi giày thể thao. Tagawa nghĩ, chắc là đứa học sinh cấp I nào đấy tan học về đứng lại đọc thông báo giết thời

gian. Nhưng mấy giây sau, cánh cửa kính mở ra. Một cô bé mặc áo sơ mi,

bên ngoài khoác áo len cài khuy e dè bước vào. Đôi mắt tròn to khiến

người ta liên tưởng đến một giống mèo quý gây cho Tagawa ấn tượng sâu

sắc. Có vẻ cô bé là học sinh cuối cấp I.



“Có chuyện gì vậy?” Tagawa hỏi, chính anh cũng cảm thấy giọng mình

rất dịu dàng. Nếu người đẩy cửa bước vào là đám nhãi bẩn thỉu mắt la mày lét ở gần đấy, giọng anh ta chắc hẳn sẽ rất lạnh lùng hờ hững, không

thể so với lúc này được.



“Chào chú ạ, cháu họ Nishimoto.”



“Nishimoto? Nishimoto nào nhỉ?”



“Nishimoto ở khu nhà Yoshida ấy ạ.”



Giọng cô bé rành rọt. Tagawa nghe rất lạ tai. Lũ trẻ con mà anh quen

biết toàn những đứa cứ mở mồm ra là biết ngay rặt một lũ xấc xược con

nhà thiếu giáo dục.



“Khu nhà Yoshida... à?” Tagawa gật gật đầu, rút ra tập hồ sơ ở giá

sách bên cạnh. Khu nhà Yoshida có tám hộ gia đình, nhà Nishimoto thuê

phòng 103 nằm ở chính giữa tầng một. Tagawa xác nhận nhà Nishimoto đã

hai tháng chưa trả tiền nhà, cần phải gọi điện giục rồi. “Vậy là,” ánh

mắt anh trở lại với cô bé “cháu là con gái của chị Nishimoto?”



“Vâng ạ.” Cô bé gật đầu.



Tagawa xem lại bản đăng ký thuê nhà, chủ hộ là Nishimoto Fumiyo sống

chung với con gái tên Yukiho. Khi họ mới chuyển đến mười năm trước, còn

có người chồng, nhưng không lâu sau đó thì anh ta qua đời.



“Cháu đến trả tiền thuê phòng à?” Tagawa hỏi.



Nishimoto Yukiho cụp mắt xuống, lắc lắc đầu. Tagawa thầm nghĩ, biết ngay mà. “Vậy cháu có việc gì?”



“Cháu muốn nhờ chú mở cửa.”



“Mở cửa?”



“Cháu không có chìa khóa nên không vào nhà được, cháu không mang chìa khóa.”



“À.” Tagawa rốt cuộc cũng hiểu cô bé muốn nói gì, “Mẹ cháu khóa cửa ra ngoài rồi à?”



Yukiho gật đầu, nét mặt cô bé khi cúi đầu ngước mắt lên có một vẻ đẹp khiến người ta quên bẵng cô chỉ là học sinh cấp I, nhất thời, Tagawa

cũng không khỏi rung động.



“Cháu không biết mẹ đi đâu à?”



“Không ạ. Mẹ cháu bảo hôm nay không đi đâu... nên cháu mới không mang chìa khóa theo.”



“Vậy sao?”



Tagawa nghĩ, tính sao nhỉ, rồi nhìn đồng hồ, lúc này mà đóng cửa thì

sớm quá. Bố anh hôm qua đã đi thăm người họ hàng, đến tối mới về. Nhưng

cũng không thể đưa chìa khóa dự phòng cho Yukiho được. Lúc sử dụng chìa

khóa dự phòng, nhất định phải có mặt người của công ty bất động sản

Tagawa tại đó, đây là một điều khoản trong hợp đồng giữa họ và người sở

hữu khu nhà cho thuê ấy.



Đợi lát nữa mẹ cháu sẽ về thôi... nếu là bình thường anh sẽ nói thế,

nhưng thấy nét mặt bất an của Yukiho đang nhìn chăm chăm vào mình, anh

thật khó thốt ra những lời hờ hững như vậy.



“Được rồi, chú sẽ đi mở cửa hộ cháu. Đợi chú một lát.” Tagawa đứng

dậy, bước lại gần két bảo hiểm để chùm chìa khóa dự phòng của các căn hộ cho thuê.



Từ văn phòng bất động sản Tagawa đến khu nhà Yoshida mất chừng mười

phút đi bộ. Tagawa Toshio vừa nhìn phía sau thân hình nhỏ nhắn của

Nishimoto Yukiho vừa bước đi trong con ngõ nhỏ được lát gạch một cách sơ sài. Yukiho không đeo cặp sách của học sinh cấp I, mà chỉ xách một cái

túi bằng nhựa dẻo màu hồng. Mỗi khi chuyển động, trên người cô bé lại ra tiếng chuông đinh đinh đang đang. Tagawa lấy làm tò mò không biết đó là chuông gì, bèn để ý quan sát, nhưng nhìn bề ngoài không nhận ra được.

Để ý cách ăn mặc của Yukiho, biết ngay cô bé không phải con nhà giàu có. Giày thể thao đã mòn vẹt, áo len xù lên, còn có mấy chỗ bị rút sợi, cả

chiếc váy kẻ ca rô cũng khá sờn cũ. Mặc dù vậy, trên người cô bé này lại toát ra một vẻ quý phái mà trước đây Tagawa hiếm có cơ hội được tiếp

xúc. Anh cảm thấy hết sức khó tin, tại sao lại như vậy chứ? Anh biết rõ

mẹ của Yukiho. Nishimoto Fumiyo là một người đàn bà trầm tính, chẳng có

gì nổi bật. Vả lại chị ta giống như những người sống ở cùng khu, trong

mắt lúc nào cũng thấp thoáng vẻ thô lậu tầm thường. Tagawa ngạc nhiên vì Yukiho lại được thế này dù sống bên một người mẹ như vậy.



“Cháu học trường nào thế?” Tagawa hỏi vọng từ đằng sau.



“Trường cấp I Oe ạ.” Yukiho không dừng bước, hơi ngoảnh mặt lại trả lời.



“Oe? Chà...”



Tagawa thầm nghĩ, quả nhiên là vậy. Hầu hết trẻ con trong khu này đều học trường cấp I công lập Oe. Trường này mỗi năm đều có học sinh bị bắt vì tội trộm cắp, có mấy đứa chán cảnh nhà nên nửa đêm bỏ đi biệt tích.

Buổi chiều đi qua đó, sẽ ngửi thấy mùi thức ăn thừa. Đến giờ tan học, sẽ có mấy tên không rõ lai lịch cưỡi xe đạp xuất hiện gạt tiền tiêu vặt

của bọn trẻ. Chỉ có điều, trẻ con ở trường cấp I Oe không ngây thơ đến

nỗi bị đám lừa đảo vớ vẩn ấy gạt gẫm. Nhìn Nishimoto Yukiho, Tagawa thực sự không cho rằng cô bé sẽ học ở loại trường như thế, nên mới mở miệng

hỏi. Kỳ thực, chỉ cần nghĩ một chút, sẽ biết ngay với gia cảnh đó, cô bé không thể học trường tư được. Anh nghĩ, cô bé này ở trường hẳn là rất

tách biệt với những đứa khác.



Đến khu nhà Yoshida, Tagawa đứng trứớc cửa phòng 103, gõ cửa mấy tiếng, rồi gọi “Chị Nishimoto”, nhưng không ai trả lời.



“Mẹ cháu hình như vẫn chưa về.” Anh nói với Yukiho.



Cô bé khẽ gật đầu, trên người lại vang lên tiếng chuông đinh đang.

Tagawa cắm chìa dự phòng vào ổ khóa, vặn sang bên phải, tiếng ổ khóa

vang lên lách cách. Đúng vào khoảnh khắc ấy, một cảm giác dị thường bùng nổ, dự cảm chẳng lành chợt lóe lên. Nhưng Tagawa vẫn tiếp tục vặn tay

nắm mở cửa ra. Tagawa bước vào nhà, liền nhìn thấy một người đàn bà đang nằm trong phòng kiểu Nhật phía bên trong. Chị ta mặc áo len màu vàng

nhạt và quần bò, nằm trên chiếu tatami, nhìn không rõ mặt mũi, nhưng

chắc là Nishimoto Fumiyo.



Ồ thì ra chị ta ở nhà... vừa nghĩ đến đây, Tagawa bỗng ngửi thấy một mùi lạ.



“Hơi gas! Nguy hiểm!”



Anh vội đưa tay ra sau ngăn Yukiho đang định bước vào cửa, bịt chặt

mũi miệng, rồi lập tức quay đầu sang nhìn kệ bếp bên cạnh. Trên bếp gas

đặt một cái nồi, nút bếp được vặn mở, nhưng không thấy lửa. Tagawa nín

thở vặn van gas tổng lại, mở cửa sổ phía trên kệ bếp, rồi đi vào phòng

trong, vừa liếc nhìn Fumiyo đang nằm gục bên cạnh chiếc bàn thấp, vừa mở cửa sổ, sau đó thò đầu ra ngoài, há miệng hít thở mạnh, sâu trong óc

vẫn cảm thấy tê tê. Anh ngoảnh đầu lại nhìn Fumiyo. Sắc mặt chị ta tím

tái, làn da đã hoàn toàn không còn sinh khí. Không cứu được rồi... trực

giác cho anh biết điều đó. Trong góc phòng có một chiếc điện thoại màu

đen. Tagawa cầm ống nghe lên, bắt đầu quay số. Nhưng lúc này, anh lại do dự. Gọi 119 à? Không, tốt nhất vẫn cứ nên gọi 110 trước... đầu óc

Tagawa hỗn loạn. Ngoài ông nội chết bệnh ra, anh chưa từng thấy cái xác

nào khác. Sau khi quay số 11, anh do dự giây lát, rồi đưa ngón trỏ nhấn

vào số 0. Đúng lúc ấy, có tiếng “Chết rồi ạ?” từ ngoài cửa vọng vào.



Nishimoto Yukiho đứng ở chỗ tháo giày. Cánh cửa mở ra, ánh sáng ngược khiến Tagawa không nhìn rõ được nét mặt cô bé.



“Mẹ cháu chết rồi ạ?” Cô bé lại hỏi thêm lần nữa, giọng nói đã pha lẫn tiếng khóc nghẹn ngào.



“Giờ vẫn chưa biết được.” Ngón tay Tagawa dịch từ số 0 sang số 9, dứt khoát quay số.