Bạch Mã Khiếu Tây Phong
Chương 4 :
Ngày đăng: 12:16 18/04/20
Y giơ tay lắc cái vòng cửa, nhưng vì tâm thần hỗn loạn, đẩy qua đẩy lại vẫn không mở được. Tô Lỗ Khắc đứng một bên kêu lên:
- Tô Phổ, thằng ngu ơi! Đừng có vào.
Thế nhưng Tô Phổ nào có nghe lời y?
Lý Văn Tú thấy y si tình như thế, trong lòng xót xa, lớn tiếng nói:
- A Mạn chưa chết đâu.
Tô Phổ nghe thấy câu đó, đầu óc liền tỉnh lại ngay, quay qua hỏi:
- A Mạn chưa chết ư? Sao. .. sao ngươi biết?
Lý Văn Tú đáp:
- Trong mê cung không phải là ác quỉ mà là người.
Tô Phổ, Tô Lỗ Khắc, Xa Nhĩ Khố cùng cất tiếng hỏi lại:
- Rõ ràng là ác quỉ, sao lại là người?
Lý Văn Tú đáp:
- Là người giả dạng đó. Y dùng một loại ám khí cực độc thật nhỏ phát xạ giết con ngựa và người thanh niên, vết thương không dễ gì nhìn thấy. Y dưới chân đi cà khêu, khoác áo trắng chùm người, thành thử đi trên sa mạc không có dấu chân, thân thể lại thật là cao, chạy lại nhanh.
Chỉ có hai câu nàng không nói ra, đó là: "Ta biết người đó là ai vì ta nhận ra thủ pháp phóng ám khí của y. Trên con ngựa và người thanh niên kia, ta đã tìm ra dấu vết của ám khí”.
Nàng giải thích hợp tình hợp lý nhưng bọn Tô Lỗ Khắc vẫn chưa tin hẳn. Lúc này Kế lão cũng đã chạy đến, y chậm rãi nói:
- Ta biết ác quỉ này ghê gớm lắm, đừng ai vào mê cung làm gì để khỏi chết oan. Ta già cả rồi nói ra nhất định không sai đâu.
Tô Phổ đáp:
- Dù là ác quỉ hay là người, ta cũng nhất định vào. .. vào cứu A Mạn.
Y cũng mong như lời Lý Văn Tú nói, ác quỉ chẳng qua chỉ là người giả thành thì cũng còn chút hi vọng cứu được A Mạn. Y lại tới lắc chiếc vòng cửa, lần này mở ra được. Lý Văn Tú nói:
- Để ta đi với ngươi.
Tô Phổ quay lại, lòng cảm kích khôn cùng nói:
- Lý anh hùng, người đừng vào làm chi, nguy hiểm lắm.
Lý Văn Tú nói:
- Không sao đâu, để ta theo ngươi, như thế không nguy hiểm.
Tô Phổ mắt rưng rưng lệ, nghẹn ngào nói:
- Đa tạ, đạ tạ.
Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Ngươi cảm ơn ta như thế chẳng qua cũng chỉ vì A Mạn”. Nàng quay lại nói với Kế lão:
- Kế gia gia, ông ở đây chờ cháu nhé.
Kế lão nói:
- Không đâu, ta cùng đi với ngươi, người. .. người đó ghê gớm lắm.
Lý Văn Tú nói:
- Ông già rồi, lại không biết võ công, ở bên ngoài chờ tốt hơn. Cháu không nguy hiểm gì đâu.
Kế lão đáp:
- Ngươi không biết đâu, nguy hiểm ghê gớm lắm. Ta muốn lo cho ngươi.
Lý Văn Tú không thể nào nói gì hơn, nghĩ thầm: “Ông làm sao lo cho tôi được? Có tôi phải lo cho ông thì có”. Năm người liền đốt đuốc theo con đường cũ tiến vào mê cung.
*
* *
Năm người đi quanh co một hồi thật lâu, Tô Phổ vừa đi vừa gọi:
- A Mạn, A Mạn, em ở đâu?
Thế nhưng trước sau không nghe thấy tiếng nào khác. Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Để ta dọa cho tên quái quỉ sợ một phen mới được”. Nàng bèn nói:
- Bọn mình tất cả kêu lên là đại đội nhân mã đang đến cứu người, không chừng khiến cho ác nhân sợ bỏ chạy đó.
Tô Lỗ Khắc, Xa Nhĩ Khố và Tô Phổ cùng theo kế đó lớn tiếng la lên:
- A Mạn, A Mạn, đừng có sợ, tất cả mọi người đến cứu ngươi đây.
Các điện đường trong mê cung đều trống không, tiếng bốn bề dội lại oang oang. Đi một hồi nữa, bỗng nghe tiếng đàn bà kêu thét lên, giọng đúng là A Mạn. Tô Phổ vội theo âm thanh chạy đến, đẩy một cánh cửa, thấy A Mạn nằm co ở một góc phòng, hai tay bị trói quặt ra đằng sau. Hai người vừa mừng vừa sợ, cùng kêu lên. Tô Phổ chạy đến cởi dây trói, hỏi:
- Con ác quỉ đâu?
A Mạn đáp:
- Y không phải là quỉ, mà là người. Y vừa mới ở đây, nghe thấy tiếng của các người, định ôm em bỏ chạy. Em cố hết sức dãy dụa, y nghe thấy đông người nên vội hốt hoảng chạy mất.
Tô Phổ thở phào một hơi, hỏi tiếp:
- Thế. .. thế người đó hình dáng ra sao? Tại sao y lại bắt em đến đây?
A Mạn đáp:
- Trên đường y bịt chặt mắt em, đến mê cung rồi tối đen nên không nhìn rõ tướng mạo y ra sao cả.
Tô Phổ quay lại nhìn Lý Văn Tú, ánh mắt đầy vẻ cảm kích. A Mạn nói với Xa Nhĩ Khố:
- Cha, người này nói tên y là Ngõa Nhĩ Lạp Tề, cha có biết. ..
Nàng nói chưa dứt câu, Xa Nhĩ Khố và Tô Lỗ Khắc cùng kêu lên:
- Ngõa Nhĩ Lạp Tề?
Hai người kêu lên như thế thật đã rõ ràng, không những họ biết Ngõa Nhĩ Lạp Tề mà còn biết rành là khác. Xa Nhĩ Khố đáp:
- Người đó là Ngõa Nhĩ Lạp Tề ư? Không thể được. Chính y nói y là Ngõa Nhĩ Lạp Tề? Ngươi không nghe nhầm đấy chứ?
A Mạn nói:
- Y nói y có quen mẹ con.
Tô Lỗ Khắc nói:
- Thế thì đúng rồi, đúng là Ngõa Nhĩ Lạp Tề rồi.
Xa Nhĩ Khố lẩm bẩm nói:
- Y quen với mẹ ngươi? Là Ngõa Nhĩ Lạp Tề? Vì cớ gì. .. cớ gì y lại biến thành ác quỉ trong mê cung?
A Mạn nói:
- Y không phải quỉ, y là người. Y nói từ lúc còn nhỏ đã yêu mẹ con, nhưng mẹ con lại có mắt không tròng, đi lấy cái thằng khùng là cha con... Ấy chết, cha ơi, cha đừng giận, cái tên đê tiện đó nói đó.
Tô Lỗ Khắc cười sằng sặc, nói:
- Ngõa Nhĩ Lạp Tề là thằng đê tiện, nhưng y nói đâu có sai, cha ngươi đúng là thằng khùng. ..
Lý Văn Tú đâu có biết Đường Thái Tông là ai, Ngõa Nhĩ Lạp Tề liền kể tiếp cho nàng nghe lai lịch của tòa mê cung. Nơi đây chính là thuộc về nước Cao Xương thời nhà Đường.
Hồi đó Cao Xương là một nước lớn ở Tây Vực, sản vật phong phú, quốc thế cường thịnh. Năm Trinh Quan nguyên niên đời Đường Thái Tông, quốc vương nước Cao Xương tên là Cúc Văn Thái thần phục nhà Đường. Đường triều phái sứ giả đến Cao Xương, đòi y phải theo qui củ của người Hán. Cúc Văn Thái nói với sứ giả:
- Chim ưng bay trên trời, chim trĩ nằm trong bụi, con mèo ở trong nhà, con chuột chui dưới hang, mỗi giống có một tính cách, giống nào ra giống nấy tự mình sống theo mình.
Y nói thế có ý rằng các ngươi tuy là chim ưng dữ tợn bay trên trời nhưng ta cũng là loài gà rừng, ẩn nấp nơi đồng cỏ, tuy các ngươi có là con mèo đi lại nơi sảnh đường, thì ta cũng như con chuột nhắt, nằm sâu dưới hang, các ngươi chắc đã làm gì được ta? Hai bên mỗi bên có những tính cách riêng, thích hợp riêng, không thể bên nào ép bên nào phải theo ý mình, sao các ngươi nhất định bắt ta phải theo qui củ tập tục của người Hán là sao? Đường Thái Tông nghe nói thế, giận dữ lắm bảo rằng y là giống dã man, không phục vương hóa nên sai đại tướng Hầu Quân Tập đem quân chinh phạt.
Cúc Văn Thái nghe tin nói với bách quan rằng:
- Nước Đại Đường ở cách xa ta bảy ngàn dặm, ở giữa là một ngàn dặm đại sa mạc, đất không có cỏ, không có nước, gió lạnh như dao cắt, trời nắng thì như thiêu, làm sao đem đại quân vượt qua được? Họ đem quân tới đánh ta, nếu như đem binh thật nhiều, lương thảo tiếp viện sẽ không lo nổi. Còn nếu như chỉ đem dưới ba vạn quân thì ta không sợ. Mình sẽ dĩ dật đãi lao (lấy nhàn nhã chống nhọc mệt), kiên quyết thủ trong thành chỉ cần giữ được hai mươi ngày, quân nhà Đường hết lương thực ắt phải quay về.
Y biết rằng quân nhà Đường ghê gớm nên đưa ra kế sách chỉ thủ mà không đánh nên chiêu tập dân phu xây một tòa mê cung ở một nơi cực kỳ bí mật, để nếu như đô thành không giữ được thì có nơi rút về.
Thời kỳ đó nước Cao Xương tương đối hùng cường, các thợ giỏi của Tây Vực đều tụ tập tại vùng này. Tòa mê cung xây dựng rất ngoằn ngoèo, kiên cố, bao nhiêu trân kỳ bảo vật ở trong nước đều đem vào cất nơi đây. Cúc Văn Thái tính toán rằng nếu quân Đường có đánh vào mê cung cũng chưa chắc tìm được nơi y ở.
Hầu Quân Tập đã từng học binh pháp của Lý Tịnh, rất giỏi dùng binh, đánh thẳng tới thế như chẻ tre, vượt qua được sa mạc. Cúc Văn Thái nghe nói đại quân nhà Đường kéo đến, lo lắng không biết làm cách nào, sợ quá mà chết. Con trai y là Cúc Trí Thịnh lên nối ngôi. Hầu Quân Tập tất lãnh đại quân, đánh đến chân thành, đánh nhau luôn mấy trận quân nước Cao Xương đại bại. Quân nhà Đường có một loại xe dùng để công thành, cao mười trượng, trông như một cái tổ chim nên gọi là “sào xa”. Loại sào xa đó đẩy đến chân thành, quân sĩ từ cao đánh xuống, ném đá bắn tên, quân Cao Xương khó mà chống đỡ. Cúc Trí Thịnh chưa kịp chạy về mê cung thì thành đã vỡ, đành phải đầu hàng. Nước Cao Xương từ khi Cúc Gia lập quốc đến đây, truyền được chín đời, tổng cộng một trăm ba mươi tư năm, tới năm Trinh Quan thứ mười bốn nhà Đường thì bị diệt vong. Khi đó nước Cao Xương từ đông sang tây tám trăm dặm, từ nam chí bắc năm trăm dặm là một đại quốc bên Tây Vực.
Hầu Quân Tập bắt được vua nước Cao Xương Cúc Trí Thịnh cùng văn võ bách quan và các người tài giỏi đem giải về Trường An (kinh đô nhà Đường), lấy hết các đồ quí giá trong mê cung. Vua Đường Thái Tông bảo là nước Cao Xương không chịu bị người Hán đồng hóa, không biết được những gì tốt đẹp của Trung Hoa thượng quốc nên sai đem rất nhiều sách vở, y phục, dụng cụ, nhạc khí. .. của người Tàu cho nước Cao Xương. Người Cao Xương không theo mà nói rằng:
- Con gà rừng không thể học cách bay lượn của con chim ưng, con chuột không thể bắt chước con mèo kêu meo meo, dù người Hán các ngươi có hay cách nào chăng nữa, người Cao Xương chúng ta cũng không thích.
Họ đem tất cả sách vở, văn vật, dụng cụ, tượng Phật, tượng Khổng Tử, tượng Lão Quân của Đạo giáo. .. vua nhà Đưỡng ban cho đem cất vào mê cung, chẳng ai thèm nhìn đến một lần.
Hơn một nghìn năm qua, sa mạc biến thiên, cây cối mọc lên, tòa cố cung trước nay vốn cực kỳ bí mật lại càng thên ẩn bí. Nếu như không có địa đồ đưa đường chỉ lối, không ai có thể tìm được. Người Cáp Tát Khắc ngày nay và dân tộc Cao Xương không có liên quan gì đến nhau.
Ngõa Nhĩ Lạp Tề khi còn ở Trung Nguyên học cả văn lẫn võ, đọc rất nhiều sách vở của người Hán nên biết rành lịch sử triều nhà Đường. Lý Văn Tú tuy là người Hán nhưng lại không biết gì cả nên cũng không thấy có gì hứng thú. Nàng nghe giọng Ngõa Nhĩ Lạp Tề càng lúc càng yếu dần nên nói:
- Sư phụ, thầy nghỉ một lát, đừng nói nữa. Gã hoàng đế người Hán kia thật là lắm chuyện, người ta thích cái gì thì kệ người ta việc gì phải ép buộc? Ôi, cái mà mình thật thích thì thường lại không được. Còn cái gì người khác tưởng là tốt mà nhất định bắt mình làm, mình không thích thì nhất định sẽ không bao giờ thích cả.
Ngõa Nhĩ Lạp Tề nói:
- A Tú, ta. .. ta thật là cô đơn, từ nay sẽ không còn ai nói chuyện với ta lâu như thế nữa, con. .. con có chịu ở với sư phụ không?
Lý Văn Tú đáp:
- Sư phụ, con ở đây với thầy.
Ngõa Nhĩ Lạp Tề nói:
- Ta sắp chết rồi, sau khi ta chết đi con sẽ đi khỏi, không bao giờ quay lại nữa.
Lý Văn Tú không biết phải trả lời sao, chỉ thấy thật thê lương đau lòng, nàng giơ tay ra, nhẹ nhàng cầm bàn tay trái sư phụ, thấy tay ông ta lạnh dần. Ngõa Nhĩ Lạp Tề nói:
- Ta muốn con mãi mãi ở nơi đây cùng với ta, mãi mãi không không bao giờ rời xa ta. ..
Y vừa nói vừa chầm chậm đưa tay phải lên, ngón tay cái và ngón tay trỏ cầm hai cái kim độc, nghĩ thầm: “Hai cái kim này chỉ nhè nhẹ đâm vào ngươi thì ngươi sẽ vĩnh viễn ở lại mê cung với ta, không thể bỏ ta được”. Y nói nhỏ:
- A Tú, con vừa xinh đẹp vừa hiền hậu, thật là một cô gái ngoan, con mãi mãi ở bên cạnh ta nhé. Ta một đời thật là tịch mịch cô đơn, chẳng ai lo liệu cho ta cả. .. A Tú, con ngoan lắm, thật là một đứa bé ngoan. ..
Hai chiếc kim độc từ từ di chuyển dần về hướng Lý Văn Tú, trong đêm tối nàng đâu có thấy. Ngõa Nhĩ Lạp Tề nghĩ thầm: “Tay ta không còn chút lực khí nào, chỉ chầm chậm đâm thôi, nếu nhanh quá, nó chỉ giựt tay ra là ta không đâm nó được nữa”. Độc châm từng tấc, từng tấc đến gần mặt nàng hơn, chỉ còn hai thước, chỉ còn một thước. ..
Lý Văn Tú biết đâu kim độc chỉ cách mình bẩy tám tấc, nói tiếp:
- Sư phụ, mẹ của A Mạn chắc đẹp lắm nhỉ?
Ngõa Nhĩ Lạp Tề bỗng giật mình, nói:
- Mẹ của A Mạn. .. Nhã Lệ Tiên. ..
Đột nhiên toàn thân y không còn một chút lực khí nào cả, biến đi đâu mất hết. Bàn tay đang giơ lên liền rũ xuống, không còn bao giờ có thể giơ lên được nữa. Lý Văn Tú nói:
- Sư phụ, thầy đối với con thật tốt, con sẽ không bao giờ quên.
*
* *
Trên sa mạc đi về Ngọc Môn Quan, một cô gái cưỡi ngựa trắng chầm chậm đi về hướng đông. Nàng đang nhẩm lại những gì mà người Cáp Tát Khắc của bộ tộc Thiết Diên nói với nàng lúc chia tay:
Tô Lỗ Khắc nói:
- Lý cô nương, cô đừng đi, ở lại với chúng tôi. Chúng tôi ở đây có nhiều cái hay lắm, sẽ tìm cho cô một ông chồng thật tốt. Chúng tôi sẽ biếu cô thật nhiều cừu, nhiều bò, làm cho cô một cái lều thật đẹp.
Lý Văn Tú mặt đỏ lên, lắc đầu. Tô Lỗ Khắc lại nói tiếp:
- Cô là người Hán, cái đó cũng chẳng sao. Người Hán cũng có người tốt. Người Hán có lấy người Cáp Tát Khắc được không nhỉ? Hừm. ..
Y lắc đầu nói:
- Để mình đi hỏi trưởng lão Cáp Bốc Lạp Mẫu xem sao.
Cáp Bốc Lạp Mẫu là người tinh thông kinh Koran, thông minh nhất và có học nhất trong bộ tộc Thiết Diên. Ông ta cúi đầu suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Ta là người hèn kém, có biết được gì đâu.
Tô Lỗ Khắc nói:
- Nếu là người học vấn như Cáp Bốc Lạp Mẫu mà còn không biết, người khác làm sao biết được?
Cáp Bốc Lạp Mẫu nói:
- Chương thứ bốn mươi chín kinh Koran có viết là: “Hỡi các ngươi, ta từ một người nam và một người nữ sáng tạo ra tất cả, rồi các ngươi thành nhiều dân tộc nhiều tông tộc, để cho các ngươi dễ nhận ra nhau. Dưới mắt Allah, cái tôn quí nhất trong các ngươi, là cái tối thiện lương của các ngươi”. Trên thế gian này, các dân tộc, các tông tộc đều do Chúa Allah sáng tạo ra, ngài chỉ nói là cái gì tối thiện lương thì cái đó cao quí nhất. Kinh Koran chương thứ bốn có viết: “Các ngươi phải thương yêu nhau, thương hàng xóm gần, thương hàng xóm xa, thương bạn bè, đối đãi tử tế với lữ khách”. Người Hán là hàng xóm xa của chúng ta, nếu như họ không đến xâm phạm chúng ta, thì ta phải thương yêu họ, đối đãi tử tế với họ.
Tô Lỗ Khắc nói:
- Ông nói đúng lắm. Thế con gái mình có lấy người Hán được không? Con trai mình có lấy con gái Hán được không?
Cáp Bốc Lạp Mẫu nói:
- Trong kinh chương thứ hai, tiết hai trăm hai mươi mốt có nói: “Các ngươi không được lấy con gái thờ đa thần, trừ khi họ chịu tin đạo. Các ngươi không được lấy con trai thờ đa thần, trừ khi họ chịu tin đạo”. Trong kinh chương thứ tư, tiết thứ hai mươi ba nghiêm cấm lấy người đã có chồng rồi, không được lấy anh em thân thuộc, ngoài những điều đó ra đều là hợp pháp. Dù có lấy nô lệ hay tù binh cũng không sao, thì lấy người Hán có gì mà không được?
Trong khi Cáp Bốc Lạp Mẫu đọc kinh Koran, mọi người trong bộ tộc cung kính đứng nghe, kinh văn giúp họ giải quyết vấn đề, ai nấy đều minh bạch nên cùng nói:
- Đấng tiên tri Muhammad đã dạy thế thì không thể nào sai được.
Có người còn khen ngợi sự thông minh và học vấn của Cáp Bốc Lạp Mẫu:
- Mình có chuyện gì không hiểu, chỉ đến hỏi Cáp Bốc Lạp Mẫu là ông ta giảng giải cho biết ngay.
Thế nhưng Cáp Bốc Lạp Mẫu dù tài trí, dù thông minh tới đâu có một việc ông ta cũng không giải quyết được, dù kinh Koran bao la đến đâu cũng không có câu trả lời:
Nếu như ngươi yêu thương say đắm một người, người đó lại yêu thương say đắm một người khác, thì phải thế nào?
Con ngựa trắng từng bước, từng bước đưa nàng về Trung Nguyên. Bạch mã nay đã già, chỉ còn có thể đi chầm chậm, nhưng rồi cũng đến nơi. Đất Giang Nam có liễu xanh, có đào hồng, có én đen, có cá vàng. ..Người Hán cũng có những thanh niên anh tuấn, võ giỏi, hiên ngang tiêu sái...
Thế nhưng cô gái xinh tươi ấy cũng cố chấp như những người Cao Xương thuở nào: Những thứ đó tốt lắm, đẹp lắm! Thế nhưng ta không thích thì sao?
-----------------------------------------------------------------
[1] Đao giống hình lông đuôi chim nhạn
[2] Kazakh, tức Cosak -- dân tộc thiểu số vùng Tân Cương, Cam Túc và Thanh Hải và ở nam nước Nga, phía Tây Mông Cổ, rất thiện chiến, giỏi cưỡi ngựa.
[3] Islam (Hồi giáo)
[4] tức sa mạc Gobi hiện nay ở vùng Mông Cổ
[5] một loại rượu nhẹ làm bằng sữa để lên men
[6] đoạn này mô tả hình dáng Trần Đạt Hải mâu thuẫn với đoạn đầu??? Đây phải là Hoắc Nguyên Long mới phải