Bảo Đại, Hay Là Những Ngày Cuối Cùng Của Vương Quốc An Nam
Chương 25 :
Ngày đăng: 12:05 19/04/20
Ngày 3 tháng 9 một chiếc máy bay kiểu Liberator của không quân hoàng gia Anh bay thấp qua thành phố, sau vài vòng lượn thấp đã thả ra ba chiếc dù màu.
Không có người, chỉ là ba chiếc thùng gỗ dày, đóng đai chắc chắn. Một chiếc rơi xuống vạt ruộng trên cánh đồng An Cựu, lọt ngay vào tay lực lượng bộ đội giải phóng quân Huế đóng gần đó. Hai chiếc khác rơi xuống sân trường Thiên Hựu, nơi có khoảng 200 gia đình Pháp kiều và cha đạo ở các giáo xứ trong tỉnh tập trung về đây từ sau đảo chính Nhật mồng 9 tháng 3 năm 1945.
Đã nổ ra cuộc đụng độ nhỏ giữa Pháp kiều và dân quân, tự vệ Việt Minh để tranh nhau chiếm đoạt hai chiếc hòm gỗ được thả xuống sân trường. Cả hai bên đều có thương vong. Một người Pháp gục ngã vì trúng đạn tiểu liên của Việt Minh. Một thanh niên tự vệ có nhiệm vụ canh gác khu vực Pháp kiều tên là Lê Văn Mười bị trúng đạn tiểu liên, hôm sau được chính quyền địa phương tổ chức lễ tang trọng thể. Không ai biết số người bị thương ở cả hai phía Pháp và Việt là bao nhiêu.
Hai hòm gỗ được khui ra. Tuyệt nhiên không có vũ khí. Hết thảy đều chở thuốc men và lương thực. Có cả những chiếc gương có đục lỗ để làm tín hiệu cho máy bay.
Nạn nhân Pháp tên là Chenevier, được chôn trong vườn nhà thờ chứ không phải ở nghĩa địa vì nghĩa địa do Việt Minh kiểm soát. Quan tài làm bằng những mảnh gỗ phế loại, phủ cờ tam tài.
Sau đó một số người Pháp bị người Việt bắt đem đi đã được thả về. Một người khác tên là Meynier bị bắt giải đi đâu không ai rõ (1).
Giọng điệu đã trở nên căng thẳng nhất là từ sau ngày Pháp gây hấn ở Nam Bộ, 23 tháng 9 năm 1945.
Tình hình đó khiến Paris lo ngại. Một báo cáo đề ngày 22 tháng 9 năm 1945 của các tổ chức mật vụ Pháp ở Việt Nam cho biết: “Tình cảnh của các kiều dân Pháp, bị tập trung hay quản thúc rất bấp bênh. Những vụ lộn xộn ngày càng nhiều. Nguy cơ về một cuộc tàn sát hàng loạt vẫn tồn tại và ngày càng nghiêm trọng”(3).
Chú thích:
(1) Elula Perrin, sách đã dẫn.
(2) Báo Cứu quốc số 43 ngày 14 tháng 9 năm 1945.
(3) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, hồ sơ 1211NF.