Bảo Đại, Hay Là Những Ngày Cuối Cùng Của Vương Quốc An Nam

Chương 210 :

Ngày đăng: 12:05 19/04/20


Mùa thu năm 1945 ở Huế, đất trời xám xịt, mưa phùn kéo dài. Nước mưa rả rích trên những tấm ngói men trên mái lầu Ngũ phụng ở cửa Ngọ môn. Cả khu vực Đại nội hoang vắng ẩm ướt. Điện Kiến Trung, nơi ở trước đây của vua và Hoàng hậu vẫn cửa đóng then cài.



Không ai cướp phá, mọi thứ y nguyên. Song quang cảnh trống trải trong khu vực bốn kilômét vuông này trước đây cũng đã buồn tẻ hiu hắt. Hàng ngàn con rồng bằng sứ nằm rải rác trên các mái nhà, những rãnh máng, trong những khu vườn như ngẩn ngơ luyến tiếc chủ cũ thời quân chủ. Riêng chỉ còn lại một pháo đài án ngữ cửa bắc của toà thành là còn sống động. Dân địa phương quen gọi pháo đài này là đồn Mang Cá, nơi đóng quân của lực lượng bảo vệ kinh đô Huế trước đây.



Sau ngày đảo chính 9 tháng 3, nơi đây trở thành nơi giam giữ quân nhân Pháp trong những căn buồng chật hẹp hôi hám. Nhật Bản dã đầu hàng. Một triều đại đã kết thúc. Việt Minh đã nắm chính quyền toàn quốc nhưng số phận quân nhân Pháp bị giam giữ không hề hay đổi. Những người lính Pháp khốn khổ thoát chết khỏi những hành động tàn bạo của Nhật lo sợ sẽ phải chịu sự trừng phạt của Việt Minh, những người đã bị hành hạ đoạ đày dưới chế độ thực dân. Không có chuyện họ được trả tự do trước khi người Pháp trở lại xứ này. Quân Nhật dù bại trận nhưng vẫn được Đồng Minh giao nhiệm vụ đảm bảo an ninh khu vực đóng quân, kể cả việc tiếp tục canh giữ tù binh Pháp. Chính phủ Việt Minh lên tiếng phản đối việc trả tự do cho đám tù binh Pháp này. Trong những ngày tháng 8 năm 1945, Pháp đã không đủ binh lực tiến vào Đông Dương để giải thoát tù binh và ngăn cản Việt Minh cướp chính quyền, nhưng từ bên ngoài họ ráo riết chuẩn bị tiến hành một công việc phi thường. Dù còn yếu kém, dù người Mỹ công khai phản đối việc lập lại chế độ thuộc địa Pháp ở Đông Dương, Pháp sẽ tìm cách đưa quân trở lại ở miền Nam quân Pháp theo chân quân Anh vào giải giáp quân Nhật và sau đó, với sự thoả thuận của Việt Minh, tiến ra Bắc, thay thế quân Trung Hoa làm nhiệm vụ tiếp phòng miền bắc Đông Dương. Một năm (1946) đánh dấu bằng những cuộc chém giết ở miền Nam, khiêu khích, quấy rối ở miền Bắc, những cuộc đình chiến ngắn ngủi, những cố gắng hoà giải để rồi kết thúc bằng một cuộc chiến tranh thực sự giữa toàn bộ binh lực hai bên Việt Nam và Pháp.



Tháng 9 năm 1945, những người lính Pháp đầu tiên núp sau quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn. Người Anh, không giống người Mỹ, tận tình giúp đỡ quân của tướng Leclerc đè bẹp sức kháng cự của Việt Minh, nhanh chóng lập lại nền thống trị trên phần lớn các thành phố, thị trấn và vùng nông thôn miền Nam.



Ban đầu, mọi sự diễn ra thuận lợi tuyệt vời. Ở Sài Gòn, người Anh buộc lực lượng cách mạng phải trả giá đắt. Còn ở nông thôn, chính quân Nhật lại giúp Pháp đánh bại Việt Minh. Với sự ủng hộ “hữu hảo” của quân Anh, tướng Pháp Massu có thể quét sạch các đơn vị Việt Minh, đánh bật họ ra khỏi Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân đội tướng Leclerc phải thay đổi cách đánh không giống những trận đánh bên sông Rhin. Ở đồng bằng Cửu Long du kích Việt Minh không có súng ống phải đánh địch bằng cung tên…



Tháng 11 tình hình bắt đầu gay go. Dân quân du kích bám đất, bám dân ra sức ngăn chặn bước tiến của quân Pháp. Những bộ phận của sư đoàn 9 bộ binh thuộc địa, thêm một lữ đoàn đến từ Madagascar được tung vào cuộc chiến. Đó là một đội quân chắp vá, nhặt nhạnh gần như lén lút, đúng lúc chiến tranh vừa kết thúc nên không phải dự các trận đánh cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai. Vũ khí của họ táp nham đủ loại từ nhiều nguồn Anh và Mỹ, mua lại ở các kho dự trữ không dùng đến, rải rác khắp châu Á. Đó là những siêu thị quái gở chuyên bán lậu vũ khí, ở đó họ phải mưu mẹo lắm mới mua được, vượt qua các quân lệnh và cấm đoán. Người Mỹ tỏ thái độ ngập ngừng khi phải bán súng đạn dùng vào việc duy trì hoặc lập lại chế độ thuộc địa. Ở Ceylan, công nhân bốc vác báo cho lãnh sự Pháp biết họ sẽ không xếp hàng xuống những tàu đi Sài Gòn nếu đó là những hàng phục vụ cuộc chiến tranh chống người da vàng(1).



Mục tiêu cuối cùng là phải chiếm lại Hà Nội và toàn bộ bờ biển Đông. Như vậy cần có xuồng đổ bộ. Người ta mua được của người Anh ở Singapore. Còn máy bay, chỉ có hai chiếc Dakota thừa của Mỹ, chúng được tháo rời, gửi từng bộ phận theo đường dân sự. Lại còn phải hứa bừa rằng hai chiếc máy bay đó sẽ không dùng để chiến đấu. May mắn là vẫn người Anh, bán lại những chiếc Spitfire, đóng hòm từ London cùng với mười sáu Dakota khác, mười hai Junker cũ và ba thuỷ phi cơ Catalina.
Tình thế kỳ cục này, sự chung đụng của những lực lượng đối địch nhau, kéo dài nhiều tháng, lúc thì yên tĩnh lúc lại căng thẳng.



Người Pháp trong khu phố Tây ở Huế tin rằng họ đã tai qua nạn khỏi. Họ ăn ngon, ngủ yên không còn phải lo nơm nớp cho mạng sống của họ, yên chí chờ đợi sự sắp xếp của Toà Đại diện Cộng hoà Pháp tại Hà Nội để trở về chính quốc hay sang một thuộc địa khác. Nhưng chỉ là thời gian tạm nghỉ. chiến sự sẽ trở lại với mức độ ác liệt hơn. Vài tháng sau, quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng. Cuộc thương lượng hoà bình ở Đà Lạt rồi ở Fontainebleau không đạt kết quả.



Chú thích:



(1) Xem Leclerc et l’Indochine: 1945-1947, – Leclerc và Đông Dương 1945’1947, Quand se noua le destin d’un empire, Khi nào kết thúc vận mệnh của một đế quốc – Nhà xuất bản Albin Michel.



(2) SHAT- Viện lịch sử lục quân Pháp, Hồ sơ Crèvecoeur.



(3) SHAT- Viện lịch sử lục quân Pháp, Hồ sơ Crèvecoeur.