Báu Vật Của Đời

Chương 10 :

Ngày đăng: 01:10 19/04/20


Vâng, tôi và chị Tám từng rơi vào tay viên quân y Nhật, vượt biển, xuất hiện trên báo chí Nhật bản. Sau đó mấy chục năm, các Hồng vệ binh dùng roi mây đánh tôi, tra hỏi: Nói! Quân y Nhật vì sao lại cứu mày? Tôi oan quá, vừa khóc vừa nói: Tôi không rõ, không biết gì hết. Đánh, đánh chết cái ngữ vừa lọt lòng mẹ đã làm Hán gian. Roi quất vun vút, mông đít tôi bật máu tươi. Oan tôi quá, tôi nói, oan cho tôi quá! Lại mấy chục năm sau, viên quân y Nhật đầu bạc phơ cùng ông Chủ nhiệm Kinh tế đối ngoai thị trấn Đại Lan đến gặp tôi, khi ấy tôi năm mươi hai tuổi: ông ta giở ra một tờ báo đã ố vàng cho tôi xem. Trên báo là ảnh hai đứa trẻ xấu xí hết cỡ, còn viên quân y Nhật thì sao mà đẹp, sao mà thanh nhã. Người phiên dịch bảo tôi, tiên sinh Koyoto là triệu phú Nhật Bản đến thị trấn ta để đầu tư. Ông ta nói rằng cách đây hơn năm mươi năm đã từng đến thị trấn này, cứu sống một người mẹ và hai con.



- Chúng tôi đã rà soát bằng nhiều cách, thấy rằng, những người được cứu chính là mẹ con anh.



Đứng trước vị ân nhân này tôi chẳng thấy xúc động chút nào. Tôi nói vẻ lạnh nhạt:



- Xin lỗi, ông nhầm người rồi!



Tôi trông thấy vẻ lúng túng của viên bác sĩ quân y già. Ông ta cúi rạp vái tôi một vái, miệng lí nhí xin lỗi.



- Cút mẹ mày đi - tôi lẩm bẩm trong miệng, rồi quay lại đút mồi cho con yểng biết nói.



Sau khi tiêm thuốc cầm máu, mẹ tôi tỉnh lại, cái nhìn đầu tiên là nhìn tôi - chính xác hơn là nhìn cái chim bé như con nhộng ở giữa hai chân tôi, cặp mắt u tối của mẹ chợt bừng sáng. Mẹ bế tôi lên, áp mặt vào mặt tôi. Mặt tôi đẫm nước mắt của mẹ. Tôi khóc oe oe, miệng tìm vú. Mẹ nhét vú vào miệng tôi. Tôi mút vú thành thạo như đã được huấn luyện trước. Chỉ có mùi tanh của máu, không có sữa. Tôi khóc thét lên. Chi Tám cũng khóc. Mẹ tôi trông thấy chị nhưng không bế chị lên. Mẹ đặt hai chị em nằm kề nhau, rồi bước xuống giường, lảo đảo ra chỗ ang nước, vục đầu mà uống như lừa ngựa. Mẹ đờ đẫn nhìn các xác chết trong sân. Lừa mẹ và la con run rẩy bên vựa lạc. Mẹ thấy đất trời chao đảo. Các chị lếch thếch nhạy về, vây quanh mẹ, chỉ khóc được mấy tiếng rời rạc, rồi vì mệt quá, đều ngất xỉu dưới chân mẹ. ống khói bếp nhà tôi tỏa khói trắng. Mẹ mở hòm của bà nội, lấy ra trứng gà, táo đỏ, đường phèn và một củ sâm đất để dành đã lâu. Nước trong nồi đã sôi, trứng gà nhào lộn trong nước. Mẹ gọi các chị lại ngồi xung quanh một cái chậu, múc thức ăn từ nồi vào chậu rồi bảo: Các con ăn đi! Các chị múc thức ăn ra bát, tranh nhau ăn. Người thì ăn trứng, ăn cả vỏ. Người ăn táo, nuốt chửng cả hột. Mẹ chỉ uống phần nước. Mẹ uống liền ba bát, chậu thức ăn đã cạn tới đáy. Mọi người ngồi yên một lát rồi ôm nhau khóc. Khóc chán, mẹ nói:



- Các con ơi, chúng ta có thêm một em trai và một em gái!



Mẹ cho tôi bú sữa. Tôi mút được một thứ sữa hỗn hợp có vị của táo, đường và trứng gà - một dịch thể vĩ đại và quí giá. Tôi mở mắt, các chị vui vẻ nhìn tôi. Tôi mơ hồ nhìn thấy các chị. Tôi ti cạn dòng sữa trong vú mẹ trong khi chị Tám khóc ngằn ngặt, mắt nhắm nghiền. Tôi nghe thấy mẹ thở dài bế chị lên:



- Con ơi, con là người thừa rồi!



Sáng sớm hôm sau, tiếng thanh la vang lên ngoài ngõ. Ông Cả Tư Mã Đình nhà Phúc Sinh Đường giọng khản đặc, thông báo:



- Bà con ơi, nhà nào có xác chết thì khênh ra!



Mẹ bế tôi và chị Tám đứng trong sân, tấm tức khóc trong họng. Tiếng khóc của mẹ khô khốc, đứt đoạn như những thân cây liễu bị chặt ra từng khúc, đầy cay đắng, không có nước mắt. Các chị vây quanh mẹ, người khóc, người không khóc. Trên mặt các chị cũng không có nước mắt.



Tư Mã Đình xách thanh la bước vào nhà tôi. Đó là một người như quả dưa héo, khó đoán tuổi, vì rằng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn là một cái mũi tròn trịa như nấm rơm và cặp mắt sáng và đen như mắt trẻ. Lưng hơi gù có vẻ đã bước sang tuổi già, nhưng hai bàn tay thì vừa trắng vừa mập, lòng bàn tay có năm cái mụn cơm. Hình như để mẹ tôi chú ý, lão đứng cách mẹ chỉ một bước chân, gõ thật mạnh một dùi vào thanh la. Tiếng thanh la khàn khàn, vỡ ra như vết nứt lò phóng xạ, xoáy vào từng mạch máu, từng đường gân thớ thịt. Mẹ ngừng bặt, họng cứng lại, ngưng thở trong một phút, tim cũng ngừng đập, máu không chảy. Thê thảm quá! Tư Mã Đình thở dài. Đôi môi và hai mép lão, gò má lão đều lộ vẻ đau xót và căm phẫn cùng cục, nhưng cái mũi và cặp mắt của lão thì lại lộ vẻ mừng thầm, cho rằng trong cái rủi có cái may. Lão bước đến bên cái xác đông cứng của Phúc Lộc, đứng lặng một lát. Rồi lão lại gần cái xác Thọ Hỉ đầu lìa khỏi cổ, cúi xuống nhìn vào đôi mắt đã mất hết ánh sáng, làm như muốn trao đổi tâm tình với Thọ Hỉ. Miệng lão trễ xuống để rớt một dòng nước bọt, nét mặt lão đần độn và man rợ, hoàn toàn tương phản với vẻ mặt thanh thản của Thọ Hỉ.



- Các người không nghe lời tôi, các người không nghe lời tôi!...



Lão lẩm bẩm trong miệng như trách cứ người đã chết, lại như đang nói một mình. Trở lại trước mặt mẹ, lão nói:



- Chị Thọ Hỉ này, tôi cho người khiêng hai cái xác đi. Thời tiết này, chị thấy đấy!



Lão ngửa mặt nhìn trời. Mẹ cũng ngẩng lên nhìn. Trên đầu là bầu trời màu chì đè nặng đến nghẹt thở, phía đông đỏ như máu bị những cụm mây đen dồn nén.



- Con sư tử đá nhà tôi chảy mồ hôi, mưa ập đến ngay bây giờ. Không đưa họ đi, dầm mưa dãi nắng, chị hiểu chưa?



Mẹ bế tôi quì trước mắt Tư Mã Đình, nói:



- Ông Cả, tôi mẹ góa con côi, xin nhờ vào ông! Các con ơi, lại đây, các con lạy bác đi!



Các chị tôi quì trúc mặt Tư Mã Đình. Lão gõ mấy tiếng thanh la thật to.



- Tổ sư chúng nó! Lão chửi, nước mắt ứa ra - Đây là bọn Sa Nguyệt Lượng gây ra đây! Chúng nó đánh phục kích, bọn Nhật liền nhè vào dân chúng mà trút giận! Này cô em, này các cháu, đứng cả dậy, đừng khóc nữa, tai họa không chỉ có nhà mình. Ai bảo tôi được ủy nhiệm thay chúc Trưởng trấn của Trương Duy Hán làm gì? Huyện trưởng bỏ chạy, Trấn trưởng thì không. Tổ sư nó!



Lão gọi với ra ngoài cổng:



- Ba Câu, Tư Diêu đâu, còn chần chờ gì nữa, chẳng lẽ phải dùng kiệu bát cống rước các anh vào đây hả?



Ba Câu và Tư Diêu rón rén bước vào sân, theo sau là một đám người vô công rỗi nghề trong thị trấn. Họ đều là tay chân của Trưởng trấn, thuộc đội danh dự và là tùy tùng của Trưởng trấn mỗi khi làm công vụ. Họ là hiện thân của oai phong và quyền lực của Trưởng trấn. Tư Diêu nách cắp quyển sổ mỏng đóng lề bằng dây gai, cài trên tai chiếc bút chì sọc màu. Ba Câu cố sức lật cái xác Phúc Lộc ngửa mặt lên bầu trời mây đen vần vũ. Anh ta dài giọng xướng:



- Thượng Quan Phúc Lộc - đầu bị chém vỡ đôi - chủ hộ.



Tư Diêu nhấm nước bọt giở sổ, lật đi lật lại, tìm hồi lâu mới thấy trang giấy ghi chép về nhà Thượng Quan, rồi gỡ bút chì trên vành tai xuống, chân quì chân không, dùng gối làm bàn viết, đặt quyển sổ lên, thấm bút bằng nước bọt, rồi câu một nét xóa tên Phúc Lộc...



- Thượng Quan Thọ Hỉ - giọng ba Câu đột nhiên trầm hẳn xuống - chết đầu lìa khỏi xác.
- Chết thật hả?



Lão xà ích ngồi dậy, nét mặt thiểu não nhìn ra cỗ xe ngựa đỗ bên rìa nghĩa trang, trên xe dầy đặc những quạ bay loạn xạ, kêu ầm ĩ. Ba con ngựa phủ phục trên mặt đất giấu mõm trong bụi cỏ, những con quạ đậu đầy lưng. Trên bãi cỏ quanh xe, lũ quạ đang vươn cổ mà nuốt. Hai con quạ đang tranh nhau một khúc ruột, chúng như chơi trò kéo co, con này lui thì buộc con kia phải tiến hoặc ngược lại, có lúc cả hai cùng sững lại trong thế cân bằng. Chúng nhảy tâng tâng trên cỏ, cánh xõa, cổ vươn dài, lông ở cổ xù lên để lộ sắc da mai mái, hai cái cổ như lúc nào cũng có thể bứt ra khỏi thân. Một con chó xộc tới cướp lấy khúc ruột chạy đi, lôi theo hai con quạ lăn lông lốc.



- Thưa ông Trưởng trấn, xin ông mở lòng nhân đức mà tha cho tôi! - Lão xà ích quì xuống lạy Tư Mã Đình.



Tư Mã Đình cầm cục đất ném lũ quạ. Chúng không thèm để ý. Lão đến trước mặt thân nhân những người bị hại, nhìn họ bằng còn mắt thương cảm, nói lí nhí:



- Thế này nhé, các vị nên đi về!



Các thân nhân sững sờ. Mẹ là người đầu tiên quì xuống, mọi người hùa theo, tiếng khóc dậy đất. Mẹ nói:



- Thưa ông Tư Mã, phải cho họ mồ yên mả đẹp, ông ạ!



Mọi người nhao nhao:



- Xin ông cho yên nghỉ trong lòng đất! ối mẹ ơi. ối cha ơi! ới con ơi là con...



Tư Mã Đình đầu cúi gằm, mồ hôi chảy ròng ròng trên cổ. Lão khoát tay về phía chúng tôi tỏ vẻ bất lực rồi quay lại đám tùy tùng của lão, hạ giọng nói:



- Này các cậu này anh em! Các anh em cáo mượn oai hùm, theo Tư Mã Đình này bắt gà trộm chó, càn quấy đánh lộn, ăn hiếp bà góa, đào mả phơi thây, nghĩa là bao nhiêu chuyện thương luân bại lý! Nuôi quân nghìn ngày, dùng binh một buổi, hôm nay dù có bị quạ mổ lòi mắt, vỡ đầu sứt trán thì Tư Mã Đình cũng quyết đảm đương lấy chuyện này. Chẳng gì cũng là người đứng đầu một thị trấn, tôi xin xung phong! Kẻ nào lười nhác trốn tránh công việc tôi ỉa vào mười tám đời tổ tông nhà hắn! Xong việc, tôi khao các vị một bữa rượu! Dậy mau! - Lão xách tai xà ích lôi dậy - Quay xe đi! Anh em ơi thu vén cho xong, nào!



Lúc này có ba đứa trẻ rẽ lúa trườn đến. Tới gần, mới rõ đó là ba thằng câm của nhà Tôn Đại Cô. Chúng đểu cởi trần, quần cộc cùng màu. Trong tay đứa lớn nhất là thanh dao dài bằng thép dẻo, khi vung lên phát ra tiếng vù vù. Đứa thứ hai thấp hơn, cầm thanh yêu đao, đứa nhỏ nhất vác trên vai một thanh phác đao có cán dài. Chúng trợn mắt, miệng kêu a...a!... Tay làm hiệu tỏ ra vô cùng đau xót. Tư Mã Đình chợt hiểu, vỗ vai từng đứa, bảo:



- Các cháu ơi, bà nội và anh em cháu đều ở trên xe, bác phải chôn cất cho họ. Lũ quạ ác độc, khinh người. Các cháu ơi, bác đã đánh nhau với chúng. Các cháu rõ chưa nào?...



Tư Diêu từ một nơi nào đó chui ra, nói chuyện với lũ trẻ câm bằng những động tác. Nước mắt ứa ra, lửa giận bùng lên, bọn trẻ múa đao xông vào lũ quạ



- Quân láu cá! Tư Mã Đình túm vai Tư Diêu mà lắc -Nãy giờ mày trốn ở đâu?



- Oan cho tôi, thưa ông - Tư Diêu nói - Tôi đi gọi ba anh em chúng nó.



Ba anh em thằng câm leo lên xe. Những thanh đao múa lượn, những mảnh thịt quạ rơi lả tả.



- Đến cả đi! Tư Mã Đình gọi to. Mọi người ùa tới chiến dấu với lũ quạ. Tiếng khóc, tiếng va chạm của gươm đao, tiếng vỗ cánh của những con quạ quyện vào nhau. Mùi tử khí, mùi mồ hôi, mùi máu, mùi bùn, mùi lúa mạch, mùi hoa dại trộn làm một.



Những mảnh thi thể chất đống dưới hố. Mục sư Malôa đứng trên ụ đất mới đào, đọc lời cầu nguyện: Lạy Chúa, hãy cứu vớt những linh hồn đau khổ! Nước mắt ứa ra từ cặp mắt xanh của ông, chảy trên khuôn mặt còn hằn những vết roi thâm tím, rỏ xuống chiếc áo chùng đen rách bươm, rớt xuống cây thánh giá nặng chịch đeo trước ngực.



Trưởng trấn Tư Mã Đình kéo ông mục sư xuống, nói:



- Ông ra kia nghỉ một lát! Ông cũng từ chỗ một chết một sống mà về đấy thôi!



Đám phu huyệt bắt đầu lấp đất. Ông mục sư chệnh choạng đi tới chỗ chúng tôi. Mặt trời đã ngả về tây, bóng ông trải dài trên mặt đất. Mẹ nhìn ông, trái tim mẹ ẩn sau cặp vú đập rộn lên.



Khi ánh nắng mặt trời chuyển sang màu đỏ, thì một nấm mồ lớn đã đắp xong. Theo sự hướng dẫn của Trưởng trấn Tư Mã Đình, thân nhân của những người tử nạn quì lạy trước mồ và khóc vài tiếng cho đúng bổn phận. Mẹ đề nghị họ vái tạ Tư Mã Đình và nhóm phu huyệt để tỏ lòng cảm ơn. Tư Mã Đình gạt đi:



- Thôi, thôi, miễn!



Nhóm phu huyệt ra về trong ráng chiều đỏ rực. Mẹ và các chị rớt lại sau. Mục sư Malôa thân hình cao lớn, ra về sau cùng. Đoàn người đứt quãng, kéo dài đến hơn một dặm, bóng đổ dài trên cánh đồng lúa mạch. Trong sự tĩnh lặng mênh mông của hoàng hôn, vang lên tiếng bước chân, tiếng gió xào xạc trên ngọn lúa, tiếng khóc khan của tôi, tiếng kêu ai oán của con cú vọ sau một ngày ngủ vùi trên cây đâu thân to bằng đầu người, ở chính giữa khu nghĩa trang. Tiếng kêu của con cú làm mọi người bủn rủn. Mẹ dừng bước, quay lại nhìn nấm mồ, nhìn bó huống đang cháy nghi ngút.



Mục sư Malôa cúi xuống bế chị Cầu Đệ, than thở:



- Khổ thân các con!



Ông vừa nói xong, bản dạ khúc của ngàn vạn côn trùng từ bốn phương tám hướng đã ùa tới.