Báu Vật Của Đời
Chương 13 :
Ngày đăng: 01:10 19/04/20
Người phụ nữ già đi bắt đầu từ cặp vú, cặp vú già đi bắt đầu từ đầu v*. Vì chuyện chị Lai Đê bỏ theo trai, hai đầu v* của mẹ vốn dĩ ngỏng lên thì nay rũ xuống như bông kê chín. Đồng thời, màu phấn hồng cũng chuyển sang màu đỏ sậm. Những ngày ấy lượng sữa ít đi, mùi vị cũng kém phần thơm ngọt, trong vị sữa nhàn nhạt có mùi của gỗ mục. May mà cùng với thời gian tâm trạng mẹ có khá hơn, nhất là sau khi mẹ ăn con lươn to bự, đầu v* dần dà lại ngỏng lên, màu đỏ sậm cũng nhạt đi, lượng sữa trở lại như hồi mùa thu, trong sữa đã có nhiều vị sắt, ngoại trừ có vị tanh tanh, chất lượng sữa cao hơn trước. Điều không yên tâm là, lần suy yếu này để lại một nếp hằn giữa đầu và bầu vú như trang giấy bị gập, tuy đã được vuốt phẳng, nhưng nếp gấp không mất đi. Biến cố này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tôi, dựa vào bản năng, có lẽ là trời xui khiến vậy tôi phải thay đổi thái độ đối với bầu vú, phải trân trọng chúng, phải coi chúng như vật dễ vỡ mà nhẹ chân nhẹ tay.
Mùa đông năm nay lạnh kinh khủng. Nhờ có nửa gian buồng lúa mạch và một hầm củ cải, chúng tôi sống yên ổn cho đến khi sang xuân. Trong những ngày rét buốt nhất của mùa đông, tuyết rơi dầy đặc lấp kín cửa ra vào, đè gãy những cành cây trong vườn. Chúng tôi mặc áo lông của Sa Nguyệt Lượng cho, ngồi quây quần xung quanh mẹ, mơ màng trong trạng thái ngủ đông.
Một hôm, mặt trời ló ra, tuyết tan, những cột băng treo dưới mái hiên, những con chim sẻ từ chỗ nấp chui ra, nhảy nhót trên cành đầy tuyết. Chúng tôi bừng tỉnh sau thời kỳ ngủ đông. Chúng tôi đã trải qua nhiều ngày đun tuyết lấy nước, vài trăm lần ăn một món củ cải đun bằng nước tuyết, khiến các chị ớn đến tận cổ. Chị hai Chiêu Đệ là người đầu tiên đề xuất đi lấy nước sông về ăn, vì tuyết năm nay có mùi tanh của máu, nếu không sẽ mắc bệnh mà không biết, ngay cả Kim Đồng chỉ ăn toàn sữa mẹ cũng không thoát. Chị Chiêu Đệ nghiễm nhiên thay thế vị trí của chị cả Lai Đệ. Chiêu Đệ có cặp môi đỏ mọng, giọng nói hơi rè cực kỳ hấp dẫn. Lời chị như mệnh lệnh, vì từ đầu mùa đông đến giờ chị cáng đáng toàn bộ chuyện ăn uống. Mẹ như một con bò cái bị thương, lúc nào cũng nơm nớp, đôi khi lại bao dạn hẳn lên, khoác chiếc áo quí phái lên người, ngồi trên giường sửa sang lại dáng vóc, quan tâm tới lượng và chất của sữa.
- Từ hôm nay trở đi lấy nước sông về mà dùng?
Chị Hai nhìn mẹ, nói bằng một giọng không dễ bác bỏ. Mẹ không phản úng gì. Chị ba Lãnh Đệ cau mày nhận xét cái mùi khó chịu của củ cải nấu bằng nước tuyết. Một lần nữa, chị lại dề xuất chuyện bán con la để lấy tiền mua thịt. Mẹ giễu cợt
- Băng tuyết thế này thì bán con la ở đâu?
Chị Ba nói:
- Vậy chúng ta đi săn thỏ rừng, trời đất này thỏ bị cóng không chạy được.
Mặt me đột nhiên đổi sắc:
- Các con hãy nhớ, cho đến khi chết, đừng để mẹ trông thấy thỏ rừng!
Thật ra, trong mùa đông khắc nghiệt, rất nhiều gia đình đi bắt thỏ về ăn thịt. Những con thỏ béo núc bò lê trong tuyết chứ không chạy, ngay các bà bó chân cũng bắt được. Mùa đông năm ấy là thời kỳ hoàng kim của cáo lông đỏ và cáo cỏ. Do chiến tranh, súng săn bị đủ các loại du kích tịch thu, người trong thôn không còn vũ khí. Cũng do chiến tranh, tình cảm thôn xóm bị tổn thương, nên giữa mùa săn cáo lấy lông, lũ cáo không lo bị giết hại như những năm trước. Trong những đêm dài, chúng thỏa sức vờn nhau trong đầm lầy, cáo cái có chửa nhiều hơn mức bình thường. Những tiếng hú thê thảm của chúng khiến người ta lo ngay ngáy.
Chị Ba và chị Tư khiêng thùng gỗ, chị Hai vác cái choòng ra bờ sông Thuồng Luồng. Qua nhà Tôn Đại Cô, ngó vào trong: mảnh sân hoang vắng, không một chút hơi hướng của con người. Đàn quạ đậu trên tường, cảnh tượng ồn ào trước dây của nhà họ Tôn một đi không trở lại những thằng câm cũng không biết lưu lạc đến phương nào. Các chị lội tuyết đến bắp chân, lần xuống mép nước. Mấy con mèo hoang nấp trong bụi tầm xuân nhìn các chị. Mặt trời chếch hướng đông nam, ánh nắng xiên xiên xuống lòng son, sáng lóa mắt. Băng gần bờ có màu trắng, dẫm lên có tiếng lạo xạo như bánh đa vỡ. Băng ở giữa dòng có màu xanh nhạt, rắn và trơn. Các chị loạng choạng trên băng, chị Tư ngã một cái. Chị Ba kéo chị Tư dậy, cũng ngã luôn. Đòn gánh, thùng gỗ và choòng kêu loảng xoảng trên băng, các chị cười rũ.
Chị Hai chọn chỗ sạch nhất, bắt đầu đục băng. Chiếc choàng to tướng tù thời cụ tổ để lại, nặng nề giáng xuống mặt băng, tiếng đục băng nhọn sắc như xé màng nhĩ, vọng tới tận cửa sổ nhà tôi, giấy dán cửa kêu lục bục. Mẹ vuốt ve mái tóc vàng trên đầu tôi, lông mèo rừng trên người tôi, nói:
- Kim Đồng, Kim Đồng, các chị đi phá băng, đục một lỗ to tướng, khiêng về thùng nước uống, đổ ra nửa thùng cá. Chị Tám khoác áo chẽn bằng lông con mèo rừng ngồi thu lu ở góc giường, mỉm cười vụng về, như một pho tượng Quan âm nhỏ. Chị Hai đục một nhát, mặt băng xuất hiện một điểm trắng bằng hạt hạnh đào. Vài hạt băng bám trên choòng. Chị lại giơ choòng lên, lúc lên thì găng gượng, thả xuống thì lẩy bẩy, mặt băng lại xuất hiện một điểm trắng, cách điểm trắng thứ nhất một thước. Khi mặt băng xuất hiện vài chục điểm trắng, chị Hai đã thở hồng hộc, thở ra từng luồng hơi trắng. Cố giơ cái choòng lên, chị đã kiệt súc ngã gục trên băng, mặt trắng nhợt, đôi môi mọng tím tái, mắt mờ đi, mồ hôi lấm tấm trên mũi.
Giữa lúc các chị tuyệt vọng gom nhặt thùng gỗ và đòn gánh để về nhà, chuẩn bị đun chảy tuyết lấy nước thổi cơm trưa, hơn chục cỗ xe trượt rẽ sương mù chạy như bay trên sông tới chỗ các chị. Vì mặt băng phản chiếu ánh nắng hắt trời, họ lại từ hướng đông nam chạy tới, nên chị Hai cho rằng họ từ trên trời theo tia nắng xuống trần gian. Kim quang chói lọi, nhanh như chớp giật vó ngựa cuồn cuộn, ánh bạc sáng ngời, móng sắt băm trên mặt băng ròn rã. Một mảnh băng bắn vào má chị Hai. Chị ngớ ra, quên cả né tránh. Ngựa lượn một vòng quanh các chị rồi dừng lại. Lúc này, các chị mới thấy rõ các xe trượt đều sơn màu hoàng hạnh phu một lớp dày đầu ngô đồng trông như kính màu. Mỗi cỗ xe có bốn người, đều đội mũ lông chồn. Râu, lông mày, lông mi bám đầy tuyết, miệng mũi phả ra từng làn hơi nóng hổi. Những con ngựa xinh đẹp, cẳng chân đều mọc lông dài. Qua dáng vẻ ung dung của bầy ngựa, chị Hai đoán chúng là giống ngựa Mông Cổ trong truyền thuyết. Một người cao lớn từ trên xe trượt nhảy xuống. Anh ta mặc chiếc áo bằng da dê thuộc không cài khuy, để lộ chiếc trấn thủ bằng da báo, cài sau thắt lưng da to bản,là khẩu súng lục kiểu cối xay và một chiếc búa có cán ngắn.
Chỉ mỗi anh ta không đội mũ lông, nhưng lại dội chiếc mũ ba cạnh bằng nỉ. Hai tai đeo chụp tai chống lạnh bằng da thỏ. Anh ta hỏi:
- Các cô nhà Thượng Quan đấy phải không?
Người này là ông Hai nhà Phúc Sinh Đường.
- Các cô ra đây làm gì? Anh ta hỏi.
Không đợi trả lời, anh ta tự giải đáp:
- à! Đục băng? Công việc này đâu phải của đàn bà con gái!
Anh ta gọi những người trên xe:
- Xuống cả đây! Giúp các cô hàng xóm một tí. Cũng là để ngựa Mông Cổ của ta uống nước!
Mấy chục người trên xe đều xuống. Họ ho, khạc nhổ. Vài người ngồi xổm rút búa ở thắt lưng chém băng chan chát, mảnh băng bay tung tóe. Đã xuất hiện mấy vết nút trắng trên mặt băng. Một người râu quai nón, lấy ngón tay gại gại lưỡi búa, nói:
- Tư Mã đại ca, thế này thì đến đêm cũng không được một lỗ!
Tư Mã Khố ngồi xuống rút búa ra chém thử vài nhát, chửi:
- Mẹ kiếp, rắn như thép ấy!
Râu quai nón nói:
- Đại ca, chúng ta mỗi người đái một bãi, nó sẽ tan!
Tư Mã Khố chửi:
- Nói năng cái con c. gì thế!
Nhưng ngay sau đó, anh ta vui vẻ hắn lên, vỗ mông đánh đét một cái, anh ta nhăn mặt vì vết thương ở mông chưa lành hẳn, nói:
- Có cách rồi! Kỹ sư Khương đâu rồi, lại đây?
Một người dong dỏng cao, có tên là kỹ sư Khương bước tới. Anh ta nhìn Tư Mã Khố không nói gì, nhưng qua nét mặt chừng tỏ anh ta sẵn sàng chờ sai bảo.
- Cái trò của anh có thủng được băng không?
Kỹ sư Thương cười khinh khỉnh, giong the thé như giọng đàn bà, nói:
- Dễ như đập trứng bằng búa đanh?
Tư Mã Khố phấn khởi, nói:
- Vậy thì mau lên, khoét cho tôi tám tám sáu mươi tư cái lỗ, để bà con nông dân được nhờ. Các cô ơi, đừng về vội - Anh ta bảo các chị.
Kỹ sư Thương mở gói vải bạt trên xe trượt thứ ba, lấy ra một khối sắt có hình dáng quả đạn pháo. Rất thành thạo, anh ta rũ tung cuộn ghen bọc vỏ đỏ, lắp một đầu ống ghen vào đầu khối sắt. Anh ta nhìn đồng hồ tròn trên đầu khối sắt. Chiếc kim nhỏ trên đồng hồ lắc lư. Cuối cùng, anh ta đeo găng tay bằng vải bạt, cầm lên một vật tựa khẩu súng hơi, lắp hai đầu ống ghen vào bóp thử, lập tức một luồng khí phụt ra. Trợ thủ của anh ta, một cậu bé quá lắm chỉ mười lăm tuổi, người gầy nhom, quẹt diêm châm vào luồng khí. Ngọn lửa xanh, to bằng con nhộng, lập tức bùng lên, réo ù ù. Anh ta sai cậu bé lại chỗ cỗ xe trượt, điểu chỉnh cái nút trên đầu khối sắt, ngọn lửa xanh lập tức sáng trắng, chói hơn ánh sáng mặt trời. Kỹ sư Khương tay cầm cái gọi là đồ chơi đó, nhìn Tư Mã Khố, chờ đợi.
Tư Mã Khố nheo mắt, đẩy lòng bàn tay ra phía trước, hô to:
- Cắt!
Kỹ sư Thương xịt ngọn lửa xuống mặt băng. Một làn khói trắng bốc lên cao khoảng một thước cùng với tiếng nước rót rách. Cánh tay anh ta điều khiển cổ tay, cổ tay điều khiển súng phun lửa. Súng phun lửa phụt ra ngọn lửa trắng, cắt một đường tròn trên mặt băng. Anh ta ngẩng lên nói:
- Cắt được một lỗ rồi!
Tư Mã Khố chưa tin, cúi xuống nhìn, quả nhiên băng đã bị cắt một tảng bằng cái mâm, nước sông tràn lên từ vết cắt. Kỹ sư Thường dùng lửa cắt thêm hai nhát hình chữ thập, khối băng bị cắt làm tư. Anh ta dùng chân ấn khối băng xuống, nó bị nước sông cuốn đi. Một cái lỗ hiện ra, nước sông tràn lên. Giỏi thật! Tư Mã Khố khen, những người xung quanh cũng nhìn anh kỹ sư bằng con mắt thán phục. Tư Mã Khố nói:
- Cắt tiếp!
Tôi đứng thẳng hai chân trong túi, có cảm giác giống như sau này tôi cưỡi ngựa. Mẹ giơ hai tay như chim ưng sắp vồ con thỏ, ghì chặt hai chân đội trưởng Kaxi. Hắn kêu lên đau đớn rồi bỏ tay ra. Ba tên kia cũng rụt tay về. Chị Hai ngã thẳng cẳng trên chiếu, ba người kia bỏ chạy. Mẹ tôi ngồi lên bụng Kaxi, cào xé mặt anh ta. Chị Hai kéo tay mẹ, lớn tiếng trách:
- Mẹ ơi, đây là diễn kịch, không phải thật!
Có mấy người chạy ra, gỡ Kaxi khỏi tay mẹ. Đội trưởng Kaxi mặt đầy máu, bỏ chạy vào trong cổng. Mẹ thở hồng hộc, vẫn chưa hết giận, nói:
- Dám hà hiếp con gái ta nữa thôi?
Chị Hai nổi cáu:
- Mẹ, kịch hay thế mà mẹ phá đám.
Mẹ bảo:
- Chiêu Đệ, về nhà đi con, con không nên diễn loại kịch này.
Mẹ giơ tay kéo chi Hai Chị gạt tay mẹ ra, rầu rĩ:
- Mẹ đừng bêu xấu con ở chỗ này! Mẹ nói:
- Chính con bêu xấu mẹ! Về nhà!
Chị Hai nói:
- Con không về.
Lúc này Tư Mã Khố hát giọng nam cao bước ra: Đánh sập cầu, ta thúc ngựa trở về.... Anh ta đi ủng, dội mũ lính, tay cầm roi da, xuống ngựa - con tuấn mã tưởng tượng - chân di chuyển, người nhấp nhô như sóng, hai tay giữ dây cương vô hình, làm bộ phi ngựa. Chiêng trống rầm trời, đàn sáo réo rắt, nhất là cây sáo ngang khiến người tâm thần mê mẩn, không phải vì kinh sợ, mà vì sức truyền cảm. Tư Mã Khố mặt đanh lại, hát tiếp: Trên đê chợt nghe tiếng ồn ào, ra roi thúc ngựa đến xem sao?.. Hồ cầm mô phỏng tiếng vó ngựa, cộp cộp... cộp cộp... Lòng như lửa dốt, ngựa ruổi như bay, một bước gộp nửa, ba bước gộp hai... Chiêng trống càng gấp, đánh gót, nhích chân, đại bàng nghiêng cánh, trâu già vận hơi, sư tử hí cầu... Tư Mã Khố biểu diễn toàn bộ những tuyệt kỹ của anh ta, khó mà nghĩ rằng mông đít anh ta đang dán miếng cao nặng nửa cân.
Chị Hai sốt ruột đẩy mẹ ra. Mẹ vẫn chửi sơi sơi nhưng đã lui về chỗ cũ. Ba diễn viên sắm vai lính Nhật lách vào giữa lại định nâng chị Hai lên. Đội trưởng Kaxi đã mất tăm, ba người còn lại đành phải hai người khênh đằng đầu, một người khênh hai chân, mái tóc hoa râm của anh ta kẹp giữa hai chân chị Hai trông thật ngộ, khán giả cười rũ. Cái đầu kẹp giữa hai chân nháy mắt nhíu mày, khán giả càng cười, lại càng nhíu mày nháy mắt. Tư Mã Khố tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng vẫn hát tiếp: Chợt nghe tiếng người huyên náo, giặc Nhật kia giở thói ngông cuồng, không kể hiểm nguy ta liều xông tới làm điệu bộ túm tay.
- Dừng ngay! Tư Mã Khố túm tóc trên cái đầu kẹp giữa hai chân chị Hai, quát to. Tiếp đó là cảnh đấu võ, vốn là bốn đấu một, nay chỉ còn ba đấu một. Sau một trận đánh xáp lá cà, Tư Mã Khố đã đánh bại quân Nhật, cứu thoát vợ. Giặc Nhật quì trên chiếu, Tư Mã Khố dắt tay chị Hai trong tiếng nhạc tung bừng phấn khởi đi vào trong cổng. Sau đó bốn người cầm đèn khí đốt đột nhiên sống lại, vác sào chạy vào trong, ánh sáng không còn nữa, trước mắt chúng tôi là màn đêm đen kịt.
Sáng sóm hôm sau, quân Nhật chính cống bao vây thôn. Tiếng súng, tiếng pháo, tiếng ngựa hí lôi chúng tôi ra khỏi giấc ngủ. Mẹ bế tôi dẫn bảy chị xuống hầm, bò một đoạn tối tăm ướt át và lạnh, đến chỗ hầm rộng. Mẹ thắp đèn. ánh đèn vàng vọt, chúng tôi ngồi trên cỏ khô, lắng nghe động tĩnh bên trên. Không rõ thời gian đã trôi đi bao lâu, có tiếng thở phì phò ở đoạn hầm phía trước. Mẹ cầm lấy cái kìm rèn sắt, thổi tắt ngọn đèn trong hốc vách hầm. Trong hầm lập tức tối đen. Tôi khóc, mẹ nhét đầu v* vào miệng tôi. Tôi cảm thấy đầu v* của mẹ lạnh ngắt và cúng, mất hẳn tính đàn hồi, còn có vị vừa mặn vừa đắng.
Tiếng thở ngày càng gần, mẹ giơ cao chiếc kìm. Khi đó tôi nghe rõ tiếng chị Hai đã lạc cả giọng:
- Mẹ ơi, mẹ đừng đánh, con dây mà!...
Mẹ thở ra một hơi, hai tay cầm kìm buông thõng:
- Chiêu Đệ, con làm mẹ sợ chết khiếp - mẹ nói.
- Mẹ thắp đèn lên đi, phía sau còn có người - chị Hai nói.
Mẹ rất vất vả mới thắp được đèn lên. ánh đèn vàng vọt lại chiếu sáng căn hầm. Chúng tôi nhìn chị Hai lấm bùn từ đầu đến chân. Trên má chị có một vết máu, trong tay ôm một cái bọc. - Bọc gì đấy? Mẹ hoảng sợ, hỏi. Miệng chị Hai chợt méo xệch, nước mắt chảy trên khuôn mặt lem luốc:
- Mẹ ơi! chị nức nở, đây là con trai của bà Ba.
Mẹ sững người, nổi điên lên:
- ở đâu thì đem trả về đó!
Chị lết bằng đầu gối, ngửa mặt nhìn mẹ:
- Xin mẹ mở lòng từ bi, anh ấy bị giết cả nhà, chỉ còn mỗi hạt giống này....
Mẹ lật một góc cái bọc, lộ ra khuôn mặt choắt vừa gầy vừa đen của thằng nhỏ nhà Tư Mã. Nó đang ngủ say. Nó thở đều đều, miệng chóp chép như đang bú. Tôi căm thằng nhỏ quá đỗi. Tôi nhả đầu v* ra, gào thật to. Mẹ bịt miệng tôi bằng cái đầu v* càng đắng hơn.
- Mẹ có bằng lòng cho nó ở lại không? - Chị Hai hỏi.
Mẹ nhắm mắt, không trả lời.
Chị Hai dúi thằng nhỏ vào lòng chị Ba, quì xuống lạy mẹ một lạy, vừa khóc vừa nói:
- Mẹ ơi, con sống là người của người ta, chết là ma của người ta. Mẹ cứu thằng nhỏ này, suốt đời con không quên ơn đức của mẹ.
Chị Hai vùng dậy bò ra ngoài. Mẹ níu chị lại, hỏi:
- Mày đi đâu bây giờ?
Chị Hai nói:
- Mẹ ơi, chân anh ấy bị thương, hiện nấp ở chỗ cối xay bột. Con phải đi tìm anh ấy!
Lúc này, bên ngoài vọng lại tiếng chân ngựa và tiếng súng chói tai. Mẹ nghiêng người bịt lấy lối ra hầm củ cải, nói:
- Mẹ đồng ý với con bất cứ điều gì, nhưng không thể để con đến chỗ chết!
Chi Hai nói:
- Mẹ ơi, chân anh ấy máu cứ chảy mãi. Con không đến thì anh ấy sẽ chết. Anh ấy mà chết, thì con sống còn có ý nghĩa gì? Mẹ, mẹ cho con đi...
Mẹ kêu trời, nhưng sau đó im bặt.
Chị Hai nói:
- Mẹ, con gái mẹ xin lạy mẹ đây!
Chị quì xuống, dập đầu lạy, ấp mặt vào bắp chân mẹ một thoáng, rồi chị nhắc chân mẹ sang một bên, chui ra ngoài.