Báu Vật Của Đời
Chương 14 :
Ngày đăng: 01:10 19/04/20
Cho đến tiết thanh minh ấm áp, mười tám cái đầu nhà Tư Mã vẫn treo lủng lẳng trên giá gỗ ngoài cổng Phúc Sinh Đường. Chiếc giá gỗ dựng bằng năm cây sam to và thẳng đuột, trông giống một cây đu. Những cái đầu xâu bằng dây thép, treo dưới cây gỗ bắc ngang. Tuy đã bị lũ quạ, chim sẻ, chim cút mổ hết thịt, nhưng vẫn rất dễ nhận ra đầu nào là đầu của vợ Tư Mã Đình; đầu hai đứa con ngơ ngẩn của Tư Mã Đình; của vợ cả, vợ hai và vợ ba của Tư Mã Khố; chín cái đầu của lũ con trai con gái do ba người vợ của Tư Mã Khố đẻ ra, đầu của bố mẹ bà Ba đến thăm con gái và đầu của hai người em của ông bà. Sau trận cướp phá, thôn xóm sặc mùi chết chóc, những người sống sót thì như hồn ma, ban ngày rúc vào chỗ tối, ban đêm mới dám mò ra. Chị Hai đi biệt, không một mẩu tin. Thằng nhỏ chị để lại cho chúng tôi đã gây biết bao phiền não. Trong những ngày nấp trong hầm tối, vì không nỡ để nó chết đói mẹ buộc phải cho nó bú sữa. Nó ngoác miệng, mở to cặp mắt thô lố, mút chùn chụt bầu vú vốn thuộc về tôi. Nó ăn nhiều kinh khủng, ti đến nỗi hai bầu vú chi còn như hai cái túi da lép, mà vẫn ngoác miệng ra khóc. Nó khóc như tiếng quạ, như tiếng ếch, tiếng cú kêu. Ve ngoài của nó giống chó sói, chó hoang, giống con thỏ rừng. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Khi nó độc chiếm bầu vú của mẹ, tôi chỉ khóc. Khi tôi giành lại bầu vú của mẹ, nó cũng khóc. Khi gào khóc, nó vẫn mở to mắt. Mắt nó như mắt của thằn lằn. Chị Chiêu Đệ chết tiệt đã đem về một tiểu yêu do thằn lằn đẻ ra. Bị hai tầng xâu xé, mặt mẹ bủng ra trên người đã thấy những mầm mống của bệnh tật, chẳng khác những củ cải trải qua một mùa đông dài đặc dưới hầm. Trước tiên là ở hai bầu vú của mẹ. Sữa ngày một ít đi, trong sữa tôi cảm thấy mùi vị của củ cải thối. Cái thằng khốn nạn nhà Tư Mã, lẽ nào mi không cảm thấy mùi vị đáng sợ ấy Của ai thì người ấy tiếc, nhưng tôi không thể tiếc bầu vú của mẹ được nữa. Tôi không bú thì nó bú. Hồ lô của tôi, bồ câu non của tôi, lọ sứ của tôi đã nhăn nheo, thủy phần giảm, gân xanh chằng chịt, đầu v* thâm lại, rũ rượi chúc đầu xuống.
Vì tính mạng của tôi và của thằng khốn nạn, mẹ mạnh dạn đưa các chị tôi ra khỏi hầm, về với trần gian đầy ánh nắng. Lúa mạch ở chái đông không còn một hạt, lừa và la cũng không còn, nồi niêu bát đĩa vỡ nát, tượng Quan âm trên bàn thờ chỉ còn là cái xác không đầu. Mẹ quên không dám áo lông chồn xuống hầm, áo chẽn lông mèo rừng của tôi và chị Tám cũng mất. áo khoác của các chị, vì bất li thân, nên vẫn còn, nhưng lông rụng từng mảng, các chị giống như những con thú bị thương khắp người. Bà nội nằm dưới cái cối xay ở chái tây, ngốn hết hai mươi cân củ cải mẹ để lại, ị ra một đống phân lổn nhổn như đá cuội. Khi mẹ vào cho bà ăn, bà ném những cục phân khô vào người mẹ. Mặt bà nội như củ cải thối, tóc bạc bết lại như sợi thừng, có lọn dựng ngược, lọn thì rũ xuống lưng. Mắt bà nội có màu xanh lục. Mẹ chẳng còn cách nào, chỉ lắc đầu, đặt mấy củ cải trước mặt bà nội. Người Nhật, có lẽ là người Trung Quốc, chỉ để lại cho chúng tôi một phần nhỏ củ cải đã mọc mầm. Mẹ tuyệt vọng quá, bê ra một cái vại chưa bị đập vỡ, trong vại có gói bột thạch tín mà bà nội giấu kỹ. Mẹ đổ thạch tín vào nồi củ cải. Thạch tín tan ra, mặt nồi có váng như đầu, một mùi tanh bay lên. Mẹ dùng môi khuấy đều, múc lên một môi rồi rót xuống nồi: một thứ nước đục lờ chảy qua chỗ môi mẻ, rớt tong tỏng. Hai bên mép mẹ giật giật một cách kỳ quái. Mẹ múc củ cải ra cái bát mẻ, bảo chị Lãnh Đệ:
- Lãnh Đệ, đem bát củ cải vào cho bà nội.
Chị Ba nói:
- Mẹ cho thuốc độc vào củ cải à?.
Mẹ gật.
- Để bà nội trúng độc mà chết hả mẹ? Chị Ba hỏi.
Mẹ nói:
- Cả nhà cùng chết!
Các chị khóc ầm lên, chị Tám mù cũng khóc theo, tiếng khóc mảnh như sợi tơ, như tiếng vo ve của con ong mật. Chị Tám là thê thảm nhất của nỗi thê thảm, đáng thương nhất của sự đáng thương.
- Mẹ ơi, chúng con không muốn chết!
Các chị van xin mẹ. Tôi cũng hùa theo khóc tấm tức:
- Mẹ.. mẹ...
Mẹ nói:
- Khổ thân các con!...
Mẹ khóc òa lên, khóc rất lâu chúng tôi khóc theo. Mẹ hỉ mũi rõ kêu, quẳng cái bát cùng với thạch tín ra sân, nói:
- Không chết nữa! Chết đã không sợ, thì sống không có gì phải sợ cả!
Nói xong, mẹ đứng dậy dẫn chúng tôi ra phố tìm cái ăn. Chúng tôi là những người đầu tiên xuất hiện ngoài đường.
Lúc đầu, khi trông thấy những cái đầu của nhà Tư Mã, các chị còn có vẻ sợ; vài hôm sau, các chị coi như không có gì xảy ra. Thằng khốn nhà Tư Mã mẹ bế đằng trước, đối xứng với tôi ở phía sau lưng. Mẹ có lần chỉ vào những cái đầu treo lủng lẳng đó, khẽ bảo nó:
- Con ơi, hãy nhớ lấy!
Mẹ và các chị ra khỏi thôn, ra đồng đào rễ cỏ rửa sạch, đem về giã nhỏ nấu cháo. Chị Ba rất thông minh, chị tìm ra hang chuột đồng, không những thịt rất thơm, mà còn lấy được lương thực giấu trong hang. Các chị còn đan lưới bằng chỉ gai, bắt những con cá, con tôm gầy đét và thâm sì sau một mùa đông nhịn đói. Một hôm, mẹ thử đút cho tôi một thìa cháo cá, tôi lập tức nhổ ra và cất tiếng khóc. Mẹ đút thìa cháo vào miệng thằng khốn nhà Tư Mã, nó nuốt luôn. Mẹ lại đút cho nó thìa nữa, nó lại nuốt. Mẹ phấn khởi, nói:
- Tốt rồi, thằng oan nghiệt này ăn lấy được rồi!
- Còn con thì sao?
Mẹ nhìn tôi:
- Tôi cũng không rõ anh con rể nào, chỉ biết anh ta câm, biết chữ, biết sử dụng đao, cứu sống tôi một lần, tôi cũng cứu sống anh ta một lần, thế là hòa, chẳng ai nợ ai. Do vậy, trước đây hai phút, tôi còn lưỡng lự, xem có nên trả hai bửu bối cho bà không? Nếu như lúc nãy tôi tự tiện múc cháo ăn, bà tỏ ra khiếm nhã thì tôi lờ đi không trả. Nhưng bà không nói gì, lại còn cho tôi cả mớ rau dại. Tôi đành trả cho bà. Nói rồi ông ta cầm cái bát sứt đặt lên bếp, nói:
- Đây là cái bát sứ men xanh rạn vừng, nó là kỳ lân phượng hoàng trong đồ cổ, là của độc trong thiên hạ. Anh con rể bà không biết giá trị của nó. Anh ta được chia sau một trận vơ vét. Tôi lưu ý bà về giá trị của nó. Còn cái này... - Ông ta tông đầu gậy xuống đất, có tiếng kêu của vật rỗng.
- Có cần dao không? - Mẹ đưa con dao thái rau cho ông ta.
Ông ta đón lấy con dao chẻ đôi cây gậy một bức tranh cuộn tròn rơi ra, bức tranh sơn đầu. Ông ta mở bức tranh, một mùi ẩm mốc xộc lên mũi. Chúng tôi trông thấy chính giữa bức tranh bằng giấy quyến đã ngả màu vàng, vẽ một con chim lớn thì sũng người:. rất giống con chim thịt thơm phức mà có lần chị Ba đã đem về. Con chim trong tranh ngẩng cao đầu cặp mắt to vô cảm nhìn chúng tôi. Ông mũi diều mắt quạ không giải thích gì thêm về bức tranh và con chim. Ông cuộn bức tranh lại, gác nó lên miệng cái bát cổ rồi bước ra khỏi nhà, không ngoái lại. Hai tay ông đã được tự do, vung vẩy vụng về theo mỗi bước đi.
Mẹ như cây tùng, tôi như cây tầm gửi. Năm chị em như năm cây bạch hoa. Thằng nhóc nhà Tư Mã như cây tượng thu nhỏ. Chúng tôi tụm lại thành một nhóm hỗn hợp, đứng lặng trúc cái bát tộ men xanh và bức họa sơn dầu đầy bí ẩn. Nếu không có chị Ba cười khanh khách trên giường, có lẽ chúng tôi đã hóa thành cây.
Lời tiên tri của chị Ba đã ứng nghiệm. Chúng tôi kính cẩn rước chim vào tịnh thất, treo trên hương án. Cái bát cổ sứt miệng có một lai lịch không bình thường như vậy, người trần mắt thịt đâu dám dùng. Mẹ thành tâm dâng cái bát lên hương án, rót đầy nước trong để chim uống. Cái tin nhà tôi được Nàng Tiên Chim nhập vào chị Ba không cánh mà bay khắp vùng Cao Mật và còn lan xa hơn. Người ta nườm nượp đến xin thuốc, xem bói. Nàng Tiên Chim chỉ tiếp mỗi ngày mười người. Chị tự giam mình trong tịnh thất, những người đến cầu Tiên đều quì ngoài cửa sổ. Giọng nửa người nửa chim lọt qua lỗ thủng trên giấy dán cửa sổ, giúp người xem ra khỏi bến Mê, cho phương thuốc chữa bệnh. Những đơn thuốc của chị Ba, không, của Nàng Tiên Chim hết súc lạ lùng. Bài thuốc chữa đau mắt của Tiên như sau: Ong mật một con, dế mèn một cặp, bọ ngựa năm con, giun đất một con, giã nát đắp vào lòng bàn tay. Người bệnh cầm lấy mảnh giấy bay ra từ trong cửa sổ, nhìn qua, nét mặt khinh khỉnh:
- Đúng là Tiên Chim, toàn là những thức ăn của chim.
Anh ta bất mãn ra về. Chúng tôi sợ thay cho chị. Cào cào châu chấu đều là thức ăn của chim, làm sao chữa được bệnh đau mắt? Chính lúc đang nghĩ ngợi miên man như vậy, người bệnh kia chạy trở lại như bay, quì sụp trước cửa sổ, dập đầu lạy như tế sao, luôn miệng khấn:
- Xin Tiên Cô tha tội! Xin Tiên Cô tha tội!
Chị Ba trong buồng cười nhạt. Về sau tôi nghe kể lại rằng, người bệnh lắm điều đó vừa ra khỏi cổng liền bị một con diều hâu từ trên trời lao thẳng xuống đầu, chộp lấy chiếc mũ của ông ta rồi bay mất. Lại có lần một người đàn ông không đứng đắn, giả vờ bị viêm niệu đạo, quì trước cửa sổ xin thuốc. Nàng Tiên Chim hỏi vọng ra:
- Ông bệnh gì?
Anh ta nói:
- Tôi bị bí đái, cứ cương lên!
Trong buồng yên lặng, hình như Tiên Cô đã thăng vì xấu hổ. Người kia ghé mắt qua lỗ thủng, nhòm vào trong buồng. Bỗng anh ta rú lên một tiếng thê thảm: một con rết to bự rơi trúng cổ và đợp cho anh ta một miếng. Thoáng cái, cổ anh ta sưng vù lên, mặt cũng sung, híp cả hai mắt, trông chẳng khác con cá oa oa, đầu người mình cá.
Chuyện về Nàng Tiên Chim giở phép thần thông, trừng phạt bọn lưu manh, khiến những người tử tế thích thú. Tiếng lành đồn xa. Những ngày tiếp theo, những người đến xin thuốc, xem bói, đầu là người vùng xa. Mẹ hỏi thăm, được biết người thì quê Đông Hải, người quê Bắc Hải. Hỏi họ từ đâu mà biết Tiên Cô hiển linh, họ chỉ mở to mắt, không biết trả lời thế nào. Người họ toát ra mùi mặn chát, mẹ bảo đó là mùi của biển. Những người ở xa thì ngủ đêm trong sân nhà tôi, kiên trì đợi đến lượt Nàng Tiên Chim rất ngang, mỗi ngày chỉ tiếp mười bệnh nhân rồi thăng. Khi Tiên Cô đã thăng, chái đông im lìm như chết. Mẹ sai chị Tư thay chị Ba bưng nước vào rồi lại sai chị Năm đem cơm vào thay chị Tư. Cứ luân phiên như vậy khiến những người hành hương hoa cả mắt, không sao đoán nổi Tiên Cô là ai.
Sau thời gian xuất thần, chị Ba trở lại con người bình thường, nhưng cũng không ít những thái độ và cử chỉ khác người. Chị nói rất ít, mắt lim dim, thích ngồi xổm, uống nước lã, hơn nữa, mỗi lần nuốt lại vươn dài cổ ra, điển hình cho loài chim khi uống nước. Chị không ăn lương thực, quả thực chúng tôi cũng không ăn lương thục. Những người đến xin thuốc xem bói đều thuận theo tập tính của loài chim, đem đến nào là cào cào châu chấu, nào là nhộng tằm, sâu đậu, đom đóm, có người còn cung tiến hạt quả gai, quả thông, hạt hướng dương. Chị Ba ăn không hết, mẹ và các chị ăn chỗ còn lại. Các chị rất biết nhường nhịn, có khi chỉ một con nhộng mà cứ đùn đẩy cho nhau. Lượng sữa tiết của mẹ xuống tới múc thấp nhất, nhưng chất lượng sữa thì rất tốt. Trong thời gian đó, mẹ đã mấy lần định cai sữa cho tôi, nhưng tôi khóc dữ quá nên lại thôi.
Để cảm ơn chúng tôi đã cho nước sôi và giúp đỡ trong sinh hoạt, tất nhiên trước hết cảm ơn Nàng Tiên Chim đã giúp họ giải hạn, những người miền biển để lại một bao tải cá khô trước khi ra về. Chúng tôi vô cùng cảm kích, tiễn họ lên tận mặt đê, mới trông thấy trên dòng Thuồng Luồng êm ả có mấy chiếc thuyền đánh cá đang đậu cột buồm cao vút. Trong lịch sử sông Thuồng Luồng chỉ có mấy chiếc thuyền thúng bằng gỗ để dùng khi nước lũ. Nhờ Nàng Tiên Chim, sông Thuồng Luồng có quan hệ trực tiếp với những miền biển rộng lớn. Lúc này là đầu tháng Mười, từng đợt ngắn gió tây bắc thổi mạnh trên sông. Những người miền biển lên thuyền, kéo lên cánh buồm xám vá những miếng to tướng, nhích dần ra giữa dòng, bánh lái khuấy bùn đục ngầu. Từng đàn hải âu màu xám đến theo con thuyền, nay cùng đi. Chúng kêu lên những tiếng lảnh lót, lúc vọt lên cao lúc sà xuống thấp, có con còn biểu diễn bay ngửa hoặc dang cánh lượn vòng. Trong thôn có nhiều người lên mặt đê. Họ lên xem những con thuyền, vô hình trung trở thành những người đưa tiễn. Những cánh buồm căng gió, mái chèo mềm mại, con thuyền xa dần. Họ từ sông Thuồng Luồng rẽ sang sông đào, từ sông đào chuyển sang sông Bạch Mã, từ Bạch Mã ra Bột Hải. Toàn bộ hành trình là hai mươi mốt ngày. Những kiến thức về địa lý này là do Hàn Chim bảo tôi mười tám năm sau. Những người khách phương xa tìm đến vùng Cao Mật, có phần giống như chuyện Trịnh Hòa, Từ Phúc được tái diễn, là trang sử vẻ vang của vùng Cao Mật. Mà tất cả những cái đó là do Nàng Tiên Chim của nhà Thượng Quan mà có. Niềm vinh quang làm vợi nỗi buồn của mẹ, có thể mẹ còn mong xuất hiện Nàng Tiên Thú, Nàng Tiên Cá trong nhà, mà cũng có thể chẳng bao giờ mẹ muốn như thế.
Sau khi những người ngư dân ra đi, lại có một vị khách sang đến. Bà ta đi một chiếc xe du lịch đen bóng, đứng trên bậc lên xuống ở hai bên thành xe là hai đại hán tay cầm súng tiểu liên. Bụi tung mù mịt trên đường làng chào đón khách quí. Khổ thân cho hai đại hán, người bám đầy bụi như con lừa tắm khan ở bãi đất. Chiếc xe dùng lại trước cổng nhà tôi, vệ sĩ mở cửa xe. Một cái đầu đầy trâm ngọc chui ra trước rồi đến cái cổ, rồi một cơ thể béo tốt. Người phụ nữ này từ vóc dáng đến tinh thần, chẳng khác một con ngỗng cái tắm rửa sạch sẽ. Nghiêm chỉnh mà nói, ngỗng cũng thuộc loài chim.
Mặc dù thân thế khác người, nhưng khi gặp Nàng Tiên Chim, bà ta tỏ ra vô cùng cung kính. Tiên Cô chưa bói đã biết, nhìn thấu mọi sự, trước mặt Cô không được giả dối và kiêu ngạo. Bà quì trước cửa sổ, nhắm mắt, lẩm bẩm khấn. Khuôn mặt bà tươi như hoa, không phải người có bệnh, trên người đầy vàng ngọc, không phải đến cầu tài. Loại người như vậy đến cầu gì ở Tiên Cô? Một lát sau, từ lỗ hổng trên cửa sổ bay ra một mảnh giấy trắng. Người đàn bà cầm lên xem, mặt đỏ như mào gà trống. Bà ta để lại vài đồng rồi đi thẳng. Nàng Tiên Chim viết gì trên mảnh giấy? Chỉ có Tiên Cô và người đàn bà kia biết. Những ngày ngựa xe nườm nượp qua đi rất nhanh, bao tải cá khô cũng đã ăn hết. Một mùa đông lạnh giá bắt đầu. Sữa mẹ toàn một vị rễ cỏ và vỏ cây. Ngày mồng Bảy tháng Chạp, nghe tin giáo phái Thần Chiêu hội thuộc Cơ Đốc giáo trên huyện sẽ phát chẩn vào ngày mồng Tám tháng Chạp tại nhà thờ lớn Quan Bắc, mẹ cùng chúng tôi đem theo bát đũa, nhập vào đoàn người đói khát, đi suốt đêm về hướng huyện thành. ở nhà chỉ còn hai người: chị Ba và bà nội, vì một người nửa Người nửa Tiên, còn một người nửa Người nửa Quỉ, nhịn đói nhịn khát giỏi hơn chúng tôi. Mẹ quẳng cho bà nội một bó cỏ khô, nói:
- Mẹ ơi, nếu chết được thì mẹ chết nhanh đi, mẹ chịu cực cùng chúng con làm gì!
Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi trên con đường dẫn tới huyện lỵ. Cái gọi là con đường chỉ là một lối mòn màu xám được tạo nên bởi những vết chân người và súc vật, không hiểu người đàn bà sang trọng kia cho xe chạy bằng cách nào?. Chúng tôi đi dưới trời sao lạnh. Tôi đứng trong túi trên lưng mẹ, thằng nhóc nhà Tư Mã trên lưng chị Tư, chị Năm cõng chị Tám, chị Sáu chị Bảy tự đi. Vào lúc nửa đêm, trên cánh đồng hoang dã, tiếng trẻ khóc liên miên không dứt. Chị Bảy chị Tám và thằng nhóc nhà Tư Mã cũng khóc. Mẹ lớn tiếng mắng các chị. Nhưng mẹ cũng lại khóc, chị Tư chị Năm chị Sáu đều khóc hết. Các chị loạng choạng gục xuống, mẹ dựng ngược chị này dậy thì chi khác lại gục xuống, kéo được chị kia dậy thì chị này lai đổ xuống. Về sau, mẹ cũng ngồi bệt trên mặt đất băng giá. Chúng tôi chụm lại một chỗ sưởi ám cho nhau. Mẹ xoay tôi ra phía ngực, dùng ngón tay tê cóng quệt mũi cho tôi. Chắc mẹ nghĩ tôi đã bị chết cóng. Tôi dùng hơi thở thoi thóp để báo ẹ biết là tôi vẫn còn sống. Mẹ nâng mảnh vải che, nhét đầu v* lạnh như băng vào miệng tôi, tôi tưởng như cục băng đang tan, miệng tôi mất hết cảm giác. Trong bầu vú của mẹ không có gì, tôi cố mút cũng chỉ rỉ ra một chất mảnh như tơ nhện. Rét ơi là rét! Trong giá lạnh, những con người đói khát tưởng tượng ra bao cảnh hấp dẫn: Lửa rừng rực trong lò, gà vịt trong nồi bốc hơi nghi ngút, từng mâm bánh bao, lại còn hoa tươi, lại còn cỏ xanh mượt. Trước mắt tôi lại toàn là những bầu vú đầy nhựa sống như trái hồ lô, tròn trịa như chim bồ câu bé nhỏ, nhẵn nhụi bóng bẩy như bình sứ. Mùi thơm của chúng, vẻ đẹp của chúng, nước cam lồ mà chúng tự động tiết ra rót đầy bụng tôi, thấm đẫm toàn thân tôi, tôi ôm lấy bầu vú, tôi bơi trong dòng sữa... Trên đầu, hàng tỉ tỉ ngôi sao đang xoay vần, xoay mãi, xoay tròn thành những bầu vú Bầu vú Thiên Lang, bầu vú Bắc Đẩu, bầu vú Người Đi Săn, bầu vú Chức Nữ, bầu vú Ngưu Lang, báu vú của Hằng Nga trong vầng trăng, bầu vú của mẹ... Tôi nhả vú mẹ ra, nhìn thấy phía trước không xa, một người giơ ngọn được bằng da dê rách bó lại, nhảy như ngựa đến chỗ chúng tôi. Đó là ông Ba Phàn. Ông cởi trần, hét to, giọng khản đặc, trong mùi khét tức thở của da dê, dưới ánh sáng của ngọn được:
- Bà con ơi, đừng ngồi xuống... Đừng ngồi xuống? Ngồi xuống là chết cóng... Đứng dậy cả đi bà con ơi! Đi tiếp đi, bà con ơi!... Đi tiếp là sống, ngồi lại là chết!...
Lời kêu gọi cảm động của ông Ba Phàn khiến nhiều người cố thoát khỏi sự ấm áp giả tạo dẫn đến tử vong, trở lại cái rét khắc nghiệt nhưng là để sống. Mẹ đứng lên, xoay tôi ra sau lưng, ôm thằng nhỏ đáng thương nhà Tư Mã trước ngực, dắt tay chị Tám, rồi như một con ngựa điên, mẹ đá lia lịa vào chị Tư chị Năm chị Sáu chí Bảy, bắt các chị đứng lên. Chúng tôi đi theo ông Ba Phàn; người đã dùng trái tim mình làm ngọn được soi đường, không phải đi bằng chân, mà là bằng ý thúc, bằng tấm lòng, nhằm hướng huyện lỵ, nhằm nhà thờ lớn Bác Quan, hướng về Âm trạch của Thượng đế, hướng về bát cháo bố thí, đi tới.
Trong cuộc hành trình bi tráng đó, để lại dọc đường mấy chục xác chết, có xác vén áo lên, khuôn mặt ngời ngời hạnh phúc như được ngọn lửa sưởi ấm lồng ngực. Ông Ba Phàn chết giữa lúc vừng hồng vừa ló lên. Chúng tôi được ăn cháo bố thí của Thượng đế. Tôi được ăn qua bầu vú mẹ. Suốt đời tôi không thể quên cảnh húp cháo. Nhà thờ cao to sừng sũng. Lũ quạ đậu trên cây thánh giá. Xe lửa thở phì phò trên đường sắt. Hai cái chảo lớn có thể luộc cả con trâu, bốc hơi nghi ngút. Ông mục sư mặc áo chùng đen đứng bên cầu nguyện. Vài trăm người đói xếp hàng. Người hội viên hội Thần chiêu dùng cái muỗng có cán dài chia cháo, mỗi người một muỗng không kể bát lớn bát bé. Tiếng húp cháo soạn soạt, mùi cháo thơm phức. Bao nhiêu giọt nước mắt rơi xuống bát cháo. Hàng trăm cái lưỡi liếm sạch cháo trong bát. Húp xong một bát lại xếp hàng. Vài bao gạo, vài thùng nước lại đổ vào chảo. Lúc này, qua sữa mẹ, tôi biết rằng, bát cháo từ bi này được nấu bằng gạo tâms, cao lương mốc, đậu ủng và lúa mạch còn nguyên cả trấu.