Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình

Chương 12 :

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


ĐÊM CỦA GIÓ VÀ CỦA NHỮNG LINH HỒN



Vào thứ hai, Charlie chớp ngay lấy cơ hội đầu tiên để nói chuyện với bà bếp trưởng. Giữa bữa trưa, nó lẻn vô nhà bếp, viện cớ là lấy một miếng nùi giẻ để lau ly nước đổ.



Bà bếp trưởng trông thấy Charlie đứng ở cửa, liền ra chỗ nó ngay. Bất cứ ai quan sát họ chắc hẳn đều sẽ tự hỏi tại sao họ lại bàn tán về giẻ lau nhà kĩ tới thế. Nhưng mấy bà, mấy cô phục vụ bữa trưa quá tất bật nên chẳng nhận ra có gì bất thường. Hầu như Charlie nói từ đầu tới cuối và bà bếp trưởng chỉ thỉnh thoảng lại gật đầu. Cuối cùng, bà vỗ vai Charlie kèm một nụ cười trấn an.



“Cảm ơn bà bếp trưởng!” Charlie nói và rời khỏi nhà bếp… không có giẻ lau.



Billy Raven đang ngồi kẹp giữa Gabriel và Fidelio ở bên bàn, và khi Charlie xà vô nhập bọn, nó nhận thấy Billy có vẻ rất u uẩn. Nhưng thằng bé vốn chẳng vui gì kể từ khi con Rembrandt đi mất.



Chính Gabriel là đứa mào đầu về đề tài con chuột đen.



“Em có muốn gặp lại Rembrandt không?” Nó hỏi Billy.



Billy gật đầu buồn rười rượi:



“Nó là bạn thân nhất của em. Em có thể nói với nó gần như về bất cứ chuyện gì. Nó thiệt là thông minh. Nhưng làm sao em gặp nó được? Họ không cho em ra khỏi đây.”



Đôi mắt ngọc ruby của Billy đầm đìa nước.



“Dàn xếp được vụ đó rồi.” Charlie nói. “Bà bếp trưởng nói sẽ giữ nó giùm cho em, và em có thể gặp nó mỗi cuối tuần. Nhưng em phải hứa là không bao giờ, không bao giờ được nói cho bất kỳ ai biết là nó ở đâu đấy nhé.”



“Em không nói đâu!” Billy nói, và thề. “Xin thề!”



“Nếu bọn anh dàn xếp được việc này cho em thì em phải làm cho bọn anh một việc,” Fidelio nói.



“Em sẽ phải làm gì?” Billy lập tức tỏ vẻ lo lắng.



Charlie đề nghị bọn chúng nên thảo luận vụ việc ở bên ngoài.



Olivia và Emma đang ngồi dưới một gốc cây thì thấy Charlie và lũ bạn đi qua cửa vườn. Mấy đứa con gái tính chạy lại nhập bọn, nhưng rồi thấy có cả Billy đi cùng, chúng quyết định ngồi tại chỗ hơn là can thiệp vô một tình huống có vẻ căng thẳng.



Mặt Billy tái mét. Nó lắc đầu liên tục và hồi hộp cắn cắn móng tay. Sau đó Gabriel nói cái gì đó và Billy bình tĩnh trở lại. Nó cười một cái, vẻ cam chịu, gật đầu xuống và cứ thế giữ yên cái đầu.



Khi tiếng còi đi săn rúc lên, hai đứa con gái chạy bổ về phía Charlie trước khi nó bước vô tiền sảnh.



“Có chuyện gì với Billy vậy?” Olivia hỏi liền.



“Nó chịu làm rồi,” Charlie thì thào. “Tối nay sẽ tiến hành. Đừng có rời phòng ngủ chung và nhớ để mắt tới Belle.”



Emma lẹ làng đưa cho Charlie con nhện.



“Bồ sẽ cần tới cái này,” nó nói.



Suốt thời gian còn lại trong ngày hôm đó, Charlie thấy khó mà tập trung vô cái gì khác ngoài buổi tối sắp tới. Nó biết là nó sẽ phải chờ ít nhất là tới nửa đêm thì nó và Billy mới có thể lên đường đi tìm con trăn xanh da trời. Rủi Billy không liên lạc được với con trăn thì sao? Rủi con trăn quấn cả hai đứa thành vô hình thì sao? Và sau đó rồi sao?



Sau giờ làm bài tập về nhà, Charlie đuổi kịp Lysander và Tancred trước khi hai anh lớn này vô phòng ngủ chung.



“Đêm nay các anh sẽ ra tay chứ?” Nó hỏi. “Billy đồng ý rồi.”



“Tụi anh sẽ lo phần việc của mình,” Tancred bảo. “Mấy giờ?”



“Nửa đêm.”



“Anh hy vọng là chúng ta không làm cho thằng bé sợ,” Lysander bảo. “Tổ tiên anh trông có thể dữ tợn lắm.”



“Em sẽ nói vớI Billy là anh đang kiểm soát mọi việc.” Charlie nói.



“Tuỳ ý em,” Lysander bật cười lớn.



Zelda Dobinski tình cờ băng sượt qua bọn chúng đúng lúc đó. Nó ném cho bộ ba kia một cái nhìn quỷ quyệt, và “hất” một trong những tập bìa đựng giấy vẽ của Tancred bay tuốt lên trần nhà. Một đám mây giấy rời bung ra, bay lả tả khi chiếc cặp giấy rớt bịch xuống sàn.



“Con nhỏ cứ nghĩ là nó tài giỏi ghê lắm,” Tancred vừa lẩm bẩm vừa thu lượm giấy tờ lại.



“Cứ chờ tới đêm đi,” Lysander bảo khẽ. “Nó sẽ trố mắt lên sửng sốt cho mà coi.”



“Mấy người đang làm gì đấy?” Lần này chính là Belle đang tiến tới chỗ chúng.



Bọn con trai đứng dạt ra một bên, và Belle đạp hẳn lên đống giấy, cố ý giẫm lên từng tờ giấy mà nó trông thấy.



“Coi chừng!” Tancred hét lên. “Mấy bức vẽ của tôi đấy.”



“Cái gì?” Belle liếc nhìn lại Tancred với con mắt đỏ bầm màu trái anh đào.



“Coi chừng chứ sao,” Tancred quát lại, mái tóc vàng của nó nổ lốp bốp.



“Có vụ gì hả?” Một giọng cất lên, và Asa xuất hiện, bước dài dọc theo hành lang tối.



“Không có gì mà tôi không dàn xếp được,” Belle nhoẻn với Asa một nụ cười cực kỳ mê hồn.



Asa khoái chí nhếch mép cười.



“Lượm cái đống đó lên rồi về phòng ngủ chung của tụi bay, lẹ lên,” nó quát mấy thằng nhỏ.



Belle hất những lọn tóc vàng ra sau và bước đi, có Asa chạy lon ton theo cái bóng của nó.



“Em nghĩ bọn chúng đã đoán được là sẽ có việc xảy ra đêm nay,” Charlie thì thầm trong khi giúp hai anh lớn thu dọn giấy.



“Nhưng chúng không biết đó là cái gì.” Lysander trấn an nó. “Chúc may mắn, Charlie!”



“Cám ơn!”



Charlie bước tiếp về phòng ngủ chung. Nó thấy Billy Raven đang ngồi thu lu trên giường, trông lo lắng kinh khủng.



“Em không sao chứ, Billy?” Charlie hỏi.



Billy lắc đầu.



“Em sợ,” nó thì thào.



“Đừng sợ. Phe tụi mình ngon mà. Anh sẽ đánh thức em dậy khi tới giờ.”



Nói rồi Charlie trở lại giường của nó và thay bộ đồ ngủ vô.



Ở giường kế bên, Fidelio đang nằm nghiêng, đọc một bản nhạc giống như là cách người ta đọc một cuốn sách.



“Tối nay có cần anh đi cùng với em không?” Nó hỏi Charlie.



“Không cần,” Charlie đáp. “Tốt hơn anh nên ở lại đây và trông chừng các thứ.”



“Ừ,” Fidelio quay lại với bản nhạc của mình, vừa ngâm nga nho nhỏ khi đọc những nốt nhạc.



Gabriel xộc vô ngay trước khi đèn tắt vài phút. Nó thở phì phò và mặt đỏ gay, hoặc là vì chạy hay là có cái gì đó đã làm nó sửng sốt. Nó đang cầm một chiếc áo chùng xanh lá cây cuộn tròn lại.



“Bộ anh chuyển sang khoa hội hoạ rồi à?” Charlie hỏi, có vẻ bông đùa hơn là nghiêm túc.



Gabriel lại lấy đó làm nghiêm túc. Nó ngồi cái phịch xuống đầu đằng kia chiếc giường của Charlie.



“Tôi tìm thấy chiếc áo chùng của thầy Boldova,” nó hạ thấp giọng. “Nằm ngay phía sau tủ âm tường của khoa hội hoạ. Từ bữa đó tới nay tôi luôn cố tìm cái gì đó có thể cho chúng ta biết manh mối về vụ biến mất của thầy.”



“Cái áo chùng này… anh biết?”



“Biết chứ,” Gabriel bảo.



Fidelio ngước nhìn lên.



“Chuyện gì đấy?” Nó hỏi.



Gabriel nhìn quanh phòng ngủ chung. Bọn con trai trong phòng đang tấp nập ra vô nhà tắm, vài đứa đang đọc sách trên giường, những đứa khác đang đấu láo hoặc cãi lộn chí choé. Xem ra chẳng có đứa nào chú ý đến Gabriel và chiếc áo chùng xanh lá cây.



“Thầy Boldova đang ở rất gần đây thôi,” nó thì thào. “Thầy không về nhà. Mà thầy… kiểu như là… mất tích vậy. Nó cho tôi cảm giác giống hệt như hồi tôi có cảm giác về ba của cậu vậy, Charlie, nhưng tình trạng của thầy Boldova không đến nỗi xấu như vậy. Có lẽ vì thầy có phép thuật. Thầy vẫn có thể chống lại được.”



Nghe nhắc tới ba khiến Charlie ngẩn cả ra. Tìm ba là điều cuối cùng nó nghĩ tới. Bây giờ, đột nhiên, nó chợt thắc mắc liệu gia đình nhỏ của nó có bao giờ được đoàn tụ hay không. Ba Lyell Bone của nó hiện đang ở đâu? Ở xa thật xa đây, hay là ở gần thật gần, tới nỗi không ai tưởng tượng ra? Gần, nhưng mất tích.



Lo lắng vì thấy Charlie cau mày, Gabriel bảo:



“Đêm nay tôi đi cùng cậu nhé, Charlie.”



“Không cần đâu,” Charlie nói chậm rãi.



“Tôi sẽ đi,” Gabriel nói dứt khoát. “Và tôi sẽ mặc cái này.” Nó nhét chiếc áo chùng xanh lá cây xuống dưới gối. “Thầy Boldova là một người can đảm. Tôi nghĩ chiếc áo chùng này sẽ tiếp cho tôi thêm một chút lòng dũng cảm.”



Trong những tình thế nguy nan, cái cậu Gabriel hơi đãng trí, hay mơ màng này lại thường biến thành đứa điềm tĩnh và mạnh mẽ tới không ngờ. Charlie rất vui vì Gabriel sẽ đi cùng với nó trong cuộc săn lùng con trăn xanh da trời đầy rủi ro này.



Bọn trẻ ở học viện Bloor sẽ còn bàn tán mãi về cái đêm của gió và những linh hồn ấy. Cái đêm sẽ không bao giờ bị lãng quên.
Cô Ingledew hơi hốt hoảng khi thấy những ngón tay mình biến mất khi được bàn tay nhỏ bé của Ollie nắm lấy. Nhưng cô tự nhủ rằng cô phải biết đón nhận những việc đại loại thế này chứ, bởi vì cô đã là một phần trong thế giới kỳ lạ của Emma.



Họ vội vã ngược lên đường chính, và rồi xuôi về phía hẻm con Ếch, và mặc dù không trông thấy con dơi bự cồ đang quạt cánh trong những khoảng tối đằng sau lưng, nhưng cả Ollie lẫn cô Ingledew đều cảm thấy hơi tê tê ở sau gáy, như kiểu người ta vẫn hay thấy mỗi khi cảm giác có cái gì đó không minh bạch đang ở ngay đằng sau mình.



Có tới mấy lần cô Ingledew ngoái lại nhìn, nhưng đó là một con dơi ranh ma, và nó liên tục nguỵ trang thành một túi rác dựng bên một cột đèn, thành một tấm bảng hiệu, hay một bậu cửa sổ im lìm. Nên nhớ là, đã có vài người trông thấy rõ ràng một con dơi to bất thường vụt ngang qua cửa sổ nhà họ. Một người đàn ông gọi điện tới sở thú; và một người khác gọi cho Đội Cứu Hộ Thú Kiểng. Nhưng kích thước con dơi mà họ mô tả lại quá lớn nên không ai tin cả. Không có sinh vật nào như vậy tồn tại cả, người ta bảo với họ như vậy; và chắc chắn đó là một khinh khí cầu, một con diều, hay thật táo tợn khi dám nói ra, rằng đó là do thị lực quý vị kém.



Khi cô Ingledew và người đồng hành vô hình tới nơi, quán Cà Phê Thú Kiểng, cô nhấn chuông. Cửa sổ tối om, và mất một phút, tim Ollie như rớt tuột xuống. Rồi cánh cửa cái mở ra, Ollie trông thấy một người đàn ông cực kỳ nhỏ bé, và người đàn ông này đang nhìn thẳng vô mắt nó. Thật là dễ chịu. Bao nhiêu lâu nay Ollie chưa được ai nhìn vô mắt cả. Sự việc đó mở đường cho Ollie cảm thấy mình đã là người trọn vẹn trở lại.



"Đây là Ollie," cô Ingledew nói, giơ những ngón tay bị biến mất của mình lên.



"Đúng rồi," ông Onimous nói. "Rất vui được gặp cậu, Ollie. Vô đi, cả hai người!"



Ông Onimous dẫn đường băng ngang quán cà phê tối mù, tới một nhà bếp ấm cúng ở phía sau, tại đây Ollie ngạc nhiên trông thấy ba con mèo rực rỡ đang ngồi trên một tủ đông, một con chó vàng đang ngủ gà gật trong một cái ổ, và một người phụ nữ cao nghều đang làm bánh bột nhào, trong khi một con chuột đen từ trên vai bà ngó xuống coi.



"A ha!" Người phụ nữ cao nhòng kia nói, bà có cái mũi cực dài. "Kẻ biến mất! Chào mừng cậu, Ollie Sparks. Tên bác là Onoria, cậu nhỏ à, là bác Onimous gái."



Mắt bà hơi dao động một tí khi kiếm điểm để tập trung nhìn. Rõ ràng bà không xuất sắc bằng chồng trong việc đoán xem người vô hình đang đứng ở đâu. Nhưng sau đó thì bà đã làm được tốt.



Ollie không thể không tự hỏi làm sao mà một người đàn ông nhỏ như thế lại chọn một người phụ nữ cao như vậy làm vợ. Trong những dịp thông thường, ắt hẳn Ollie đã hỏi rồi, nhưng đây không phải là dịp thông thường. Thay vào đó, nó nói:



"Nó ở đây à... con trăn ấy?"



"Phải, cậu nhỏ," bà Onimous chỉ một cái giỏ to ở gần sát chân bà. "Bác luôn phải hát cho nó nghe. Con vật tội nghiệp đó đã sống một cuộc đời chẳng dễ dàng gì."



"Tôi tự hỏi," cô Ingledew rụt rè nói, "Có thể uống một tách trà trước khi chúng ta... à... trước khi việc này xảy ra được không?"



"Tôi nghĩ sao mà lại thế này?" Ông Onimous thốt lên. "Phép lịch sự, Orvil, phép lịch sự. Xin mời ngồi, cô thân mến."



Ông đưa ra một chiếc ghế, và cô Ingledew ngồi xuống với vẻ biết ơn.



Ollie nói nó nên đứng để "chữa trị" thì tốt hơn. Nó nghĩ con rắn sẽ thấy cách đó dễ dàng hơn.



"Con có thể gặp nó bây giờ được không?" Nó hỏi.



Bà Onimous nhấc nắp của chiếc giỏ ra, và Ollie chong mắt ngắm con trăn dễ sợ mà trước kia đã quấn nó thành vô hình. Con trăn này không hoàn toàn giống như Ollie nhớ. Bộ da màu ngọc bích sáng tươi của nó đã nhạt đi, và bây giờ nó có màu xanh da trời óng ánh bạc, dịu mắt. Và hình như nó cũng hơi co lại, có cái gì đó trong dáng điệu của nó tỏ ra thân thiện hơn và nhẹ nhàng hơn.



Cái đầu óng ánh bạn của con trăn đột ngột ngóc lên, và nó kêu chiếp chiếp như chim. Ollie bật lùi lại.



"Con vật dễ thương quá hả?" Bà Onimous thở dài. "Các quý vị dùng trà với sữa và đường nhé?"



"Vui lòng cho sữa thôi," cô Ingledew nói.



Còn Ollie thì bảo:



"Không ạ, cảm ơn. Hồi nữa con mới khát kìa."



Trong khi cô Ingledew và gia đình Onimous nhâm nhi trà, Ollie bước đi loanh quanh cái giỏ mây. Con rắn dõi theo thằng bé bằng đôi mắt đen, tí rị của nó. Rõ ràng là nó có thể trông thấy thằng bé. Khi Ollie đứng im, con trăn uyển chuyển trườn ra khỏi cái giỏ mây bà bắt đầu quấn quanh hai mắt cá vô hình của thằng bé. Ollie nín thở.



"Ông có nghĩ là nó biết phải làm gì không?" Bà Onimous thì thầm.



"Thì cứ hy vọng đi," ông chồng nói. "Cậu đã sẵn sàng rồi chứ, Ollie?"



"Dạ rồi. Rất sẵn sàng," Ollie đáp. "Con đã nghĩ tới chuyện gặp lại anh của con. Con cũng nghĩ tới chuyện con sẽ về lại Lâu đài Lấp Lánh. Lâu đài đó luôn sáng lấp lánh vì anh và ba của con có thể thắp lửa từ đá, hai bác có biết chuyện đó không?"



"Còn con có thể làm được gì?" Bà Onimous hỏi.



Bà Onimous nghĩ tới Ollie như một bệnh nhân, cần phải được chia trí cho quên đi cái công việc đau đớn đang được thực hiện trên thân thể.



"Con chỉ biết chơi sáo thôi," Ollie nói, vào lúc này nó chẳng cảm thấy đau đớn gì hết.



"Bác rất mong được nghe con chơi," bà Onimous nói.



Con trăn đang quấn mình thành từng vòng, từng vòng trong không khí. Tuy nhiên, không thấy một cái gì bên trong vòng cuốn của nó.



"Giờ con sẽ nhắm mắt lại," Ollie nói, "để nếu rủi mà không được gì thì con không bị thất vọng, hai bác với cô biết đó."



"Đương nhiên," những người lớn nói.



Cô Ingledew đặt tách trà của mình xuống. Cô không thể quan sát. Thật quá sức. Cuộc thí nghiệm sẽ không thành. Ollie tội nghiệp sẽ vô hình vĩnh viễn. Nhưng cô đã quyết định mình có thể làm được gì. Cô sẽ đưa Ollie đến tiệm sách và gọi điện cho cha mẹ nó. Dẫu sao một cậu bé vô hình vẫn tốt hơn là không có cậu bé nào cả. Và rồi cô trông thấy bàn chân. Trước tiên là bàn chân có con nhện ở ngón cái. Sau đó là chân kia. Chân đất, coi bộ lạnh, hết sức cần có vớ và giày.



"Hai cẳng chân kìa," ông Onimous nói khẽ.



Đáng ra ông phải la lên kìa, bởi vì con Hạt Đậu, bị xúc động trước những việc tưởng không thể xảy ra được lại đang diễn ra, cứ nhảy chồm lên và bắt đầu sủa.



"Hấp, anh chàng ngoan coi nào," bà Onimous nói.



Hạt Đậu rừ rừ và nằm xuống, cứ trợn mắt thao láo dòm cái quá trình mà Ollie mỗi lúc mỗi hiện ra rõ. Những con mèo lửa tỏ thái độ như thể trước kia chúng đã từng chứng kiến mấy vụ này rồi. Chúng vẫn im lặng, nhưng cảnh giác.



"Ôi, tội nghiệp thằng bé, trông cái quần nó kìa," bà Onimous nói, chú ý tới mảnh vải rách te tua gần như không che được hai đầu gối của Ollie.



Con rắn đang leo lên cao hơn, và bây giờ họ có thể thấy một cái áo len chui đầu màu xám sờn tưa, nhỏ hơn cỡ người của chủ nhân ít nhất là hai cỡ, những cổ tay gầy guộc lồi ra thật xa cái ống tay áo mòn xơ xác.



"Trời ơi!" Ông Onimous thốt lên khi cái cổ con trăn cuộn quanh một cái đầu tóc nâu rối tung. Một khuôn mặt hiện ra giữa những món tóc nâu, dài; nó có hai con mắt to, màu xanh da trời, thâm quầng, một cái miệng nhỏ nhắn, và một cái mũi phờ phạc, trông rất tọc mạch.



"Ôi!" Cô Ingledew thở hắt ra. "Ollie!"



Con trăn bao quanh đầu Ollie cho tới khi trông nó giống như một cái khăn xếp[2] sáng loáng, và lông mày Ollie nhướng lên đầy ngạc nhiên, phấn khích.



[2] Khăn xếp: loại khăn đội đầu của người Hồi giáo.



"Con trở lại rồi hả?" Nó hỏi. "Con cảm thấy như mình đã trở lại rồi."



"Chính thế," ông Onimous nói. "Cậu rất khoẻ mạnh và hiện hình thật rồi, Ollie Sparks. Chúc mừng!"



Có lẽ nên vỗ tay mừng, và thế là, tất cả mọi người đều vỗ tay, kể cả Ollie, tuy rất nhẹ, do nó sợ con trăn.



Con trăn có vẻ kiệt sức sau những cố gắng của mình. Quả đúng là kiệt sức, nó nhắm mắt lại và rút vô một vị trí thoải mái ở trên đầu Ollie.



Bà Onimous nhấc con vật ra khỏi Ollie và đặt nó trở vô trong chiếc giỏ.



"Chúng ta phải ăn mừng thôi," bà nói. "Orvil, pha thêm một bình trà nữa đi. Để tôi đi kiếm một ít bánh."



Sau một giờ thật đáng hài lòng, với rất nhiều quyết định được đưa ra, cô Ingledew rời quán Cà Phê Thú Kiểng và bươn bả trở về tiệm sách của mình. Cô biết Ollie đang ở trong những vòng tay chăm sóc tốt - nó đang tắm cữ đầu tiên của mình sau hơn một năm. Bà Onimous đã lo trước hết mọi việc. Thằng bé tội nghiệp sẽ có những bộ quần áo mới. Nó sẽ được cắt tóc, và nó sẽ được tẩm bổ, được nghỉ ngơi trước cuộc hành trình dài trở về lại Lâu đài Lấp Lánh, nhà của nó.



Cô Ingledew rất mãn nguyện về kết cục của mọi việc. Cô bắt đầu ngâm nga một bài hát ưa thích nhất của mình. Khi tới ngã tư, suýt nữa thì cô quẹo vô đường Filbert. Chắc chắn cô muốn chia sẻ niềm vui này với Paton Yewbeam, nhưng việc này không thể được, lời buộc tội của nội Bone vẫn còn làm cô lấn cấn.



"Mình không phải là kẻ theo đuổi," cô Ingledew khẽ lẩm bẩm. "Và mình sẽ không để bị coi là kẻ theo đuổi."



Cô tiếp tục bước đi, giờ có hơi chậm bước một chút, và hơi nguôi giận, hoàn toàn không nhận thấy con dơi lớn vẫn đang bám theo cô. Ẩn mình vô bóng tối, nó cứ bay đằng sau cô, tới phố nhà thờ, và rồi nó bám vô một ống thoát nước, quan sát cô Igledew bước vô tiệm sách và khoá cửa lại.



Con dơi bay tiếp, xuôi xuống Vòng Cung Ụ Xám, và vô hẻm Ngách Tối. Nó lượn loanh quanh và vỗ cánh phầm phập phía mặt ngoài mái nhà, rồi chui tọt vô một cửa sổ để mở ở tầng trên căn số 13 thứ ba.



Một loáng sau, mụ Yolanda Yewbeam, không còn là con dơi nữa, bước vô phân xưởng may dưới tầng hầm của bà Venetia, chắt gái của mụ.



"Tuyệt", mụ lẩm bẩm khi chiêm ngưỡng những bộ quần áo nằm rải rác trên chiếc bàn dài của bà Venetia. Có những chiếc áo chùng xanh da trời và xanh lá cây, những áo đầm lụa, áo khoác và quần chẽn nhung, những đôi vớ da đủ màu, áo lót, áo sơ-mi, diềm đăng ten, khăn len đội đầu, cùng tất cả những dây nịt và giày thật đỏm dáng.



Bà cô Venetia đang bận đính những khoen xê-quin quanh vạt một chiếc váy đen, dài. Phía bên kia, ở mép bàn, là một đống những hộp thiếc, hũ với hộp. Thỉnh thoảng bà ta lại nhúng những ngón tay vô một trong những đồ chứa đó, bốc ra ít hạt bột màu, một chút thảo mộc, hay vài chấm chất lỏng. Bà ta sẽ bôi những thứ đó vô mặt trái của những khoen xê-quin trước khi đơm chúng vô.



"Làm xong áo chùng chưa?" Mụ Yolanda hỏi.



"Chưa ạ" Bà Venetia ngước lên, hơi giật mình.



"Tao đoán nếu tao là con bé xinh đẹp đó thì mày thích hơn," mụ Yolanda nói, tuổi tác và tâm địa độc ác của mụ đã phơi bày rõ rệt trong đêm nay.



"Không phải, thưa cụ. Cụ làm con ngạc nhiên, thế thôi."



"Tao mệt quá," mụ Yolanda nói. "Tao bám theo cái con mẹ chõ mũi đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Nó đang giữ thằng bé, tao chắc chắn điều đó. Nó đã nấu mất con ngỗng của bọn ta. Grizelda nói đúng, con đó phải đi đời. Và cả đứa cháu gái khốn kiếp biết bay của nó nữa."



"Cụ gắn dây nịt chưa?"



"Đứa bạn nhỏ Dorcas của chúng ta đang lo liệu việc đó."



"Tốt. Cụ ngồi xuống đi. Bỏ mệt nhọc qua một bên nào," bà Venetia kéo ra một chiếc ghế.



"Tao muốn làm cái áo chùng," mụ Yolanda gằn giọng.



Mụ ngồi xuống đằng sau chiếc máy may và kéo chiếc áo chùng xanh lá cây về phía mình.



"Cái thằng du côn, cái con thú ranh đó nó tưởng nó quáááá... tài giỏi. Hừ, rồi nó sẽ suy nghĩ khác cho coi."



"Ai vậy, thưa cụ?"



"Cái thằng Torsson. Dám gọi ta là mụ phù thuỷ xấu xí. PHÙ THUỶ!" Mụ Yolanda thét lên.