Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình
Chương 13 :
Ngày đăng: 15:22 19/04/20
SỢI DÂY NỊT KẾT HẠT HUYỀN
Đứa con gái tên là Belle Donner đã biến mất khỏi Học viện Bloor. Đối với hầu hết bọn trẻ, điều này quả là một cái thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng Charlie biết, nó vẫn chưa gặp mụ Yolanda Yewbeam lần cuối cùng đâu. Nó được tin từ bà bếp trưởng là cuộc gặp gỡ giữa Ollie với con trăn đã thành công mỹ mãn. Tin này quả là tốt lành, nhưng Ollie cứ không ngừng hỏi về anh trai mình. Trong khi đó, không một ai biết chuyện gì đã xảy ra với Samuel Sparks.
Charlie đem vấn đề của Ollie ra bàn luận với Fidelio, thằng này đang cảm thấy mình bị gạt ra rìa trong mọi việc kể từ cái đêm đầy gió và linh hồn.
“Từ đây cho tới cuối tuần tụi mình không làm được gì nhiều đâu,” Fidelio nói. “Với lại ba anh đã đăng ký cho anh chơi đàn vỹ cầm trong đêm đám cưới ông anh họ anh rồi. Anh chịu thua, không giúp em được, Charlie. Mấy người kia hình như cũng đều bận bịu cả.”
Quả đúng vậy. Khi Tancred và Lysander nghe tin mừng về Ollie, bọn chúng cảm thấy như mình đã hoàn tất mọi phần việc cần đến chúng rồi.
Gabriel có rất nhiều bài tập dương cầm phải luyện tập cho kịp, còn Billy thì chắc chắn không thể mong chờ nó trợ giúp được rồi. Nó cứ thơ thẩn đi loanh quanh, ngầy ngật về cuộc hạnh ngộ với con trăn, và mong ngóng được đoàn tụ với con Rembrandt.
Nhưng chính Emma mới là đứa trở nên thê thảm nhất. Dorcas đã trói hai bàn tay nó bằng thứ dây mạnh mẽ khác thường, và kể từ đêm hôm đó, những ngón tay đã biến lẹ thành lông chim cứ đau nhức mãi. Đau đến nỗi mà Emma gần như không cầm viết nổi. Nhưng nó đã hứa là sẽ làm cho Olivia một sợi dây nịt vô cùng đặc biệt, và không gì thuyết phục được nó từ bỏ nhiệm vụ ấy.
Cô Marlowe, giáo viên khoa kịch, có ấn tượng tốt về diễn xuất của Olivia trong những buổi diễn tập, đến nỗi cô đã quyết định giao cho con bé đóng vai nàng công chúa chính. Và Emma, quá phấn khởi trước tin vui của Olivia, liền hứa sẽ làm cho đứa bạn nó bộ trang phục đẹp nhất từ trước tới nay.
Cái váy đầm dài đã hoàn tất và đang treo trên mắc ở phía sau lớp may trang phục. Nó được may bằng lụa đỏ, với những rẻo vải nối đen bóng. Ống tay áo dài và bó sát, với cổ tay áo bằng vải lưới đen óng ánh, và vạt váy được đính những khoen xê-quin đen nhỏ li ti. Tất cả mọi người đều trầm trồ chiếc đầm ấy, và Olivia cứ thường xuyên ghé thăm lớp của Emma chỉ để đứng nhìn mải mê bộ đồ xinh đẹp của mình. Giờ cái đầm chỉ cần có một sợi dây nịt.
Lúc này Emma đang tiến hành làm dây nịt, nhưng nó sợ rằng mình sẽ không bao giờ làm xong. Hôm nay nó mới đính được có hai hột cườm đen vào sợi dây, thế mà tất cả các khớp ngón tay của nó đã nhức nhối dữ dội rồi.
“Tôi có thể giúp bạn chút nào không?” Dorcas hỏi, nó đang ngồi đối diện với Emma bên một chiếc bàn làm việc lớn.
“Không, cám ơn, cứ để tôi ráng,” Emma nói.
Nó đính vô thêm giọt hạt huyền sáng bóng. Mỗi hạt huyền gắn vô một cái móc kẽm nhỏ xíu. Mỗi móc lại được may hẳn lên sợi dây nịt, để cho từng hạt huyền đều chuyển động độc lập được, loé sáng và lấp lánh khi ánh đèn sân khấu chiếu lên. Kết quả thật ngoạn mục: một sợi dây nịt kết hạt huyền.
Emma giơ tay lên:
“Thưa cô, em đi uống nước được không ạ?” Nó hỏi cô Singerlee, giáo viên lớp thiết kế trang phục.
“Ừ. Em bị sao vậy, Emma?” Cô Singerlee lo lắng. Emma trông thậm chí còn nhợt nhạt hơn thường ngày và công việc của nó tiến triển rất chậm.
“Em không sao, chỉ khát nước thôi,” Emma nói.
Nó rời lớp học và bắt đầu một đoạn đường xa tới phòng để áo khoác. Khi uống nước xong, nó dựa người vô dãy bồn rửa mặt và xoa bóp ngón tay. Liệu mình có bao giờ bay được nữa không, nó tự hỏi.
Emma không biết nó đã rời lớp học trong bao lâu, nhưng khi quay trở lại, nó đã thấy ai đó đã đính hết cả một hàng hột cườm vô sợi dây nịt rồi.
“Tôi nghĩ bạn cần có người giúp,” Dorcas nói.
“Cám ơn.”
Emma không biết phải nghi ngờ hay biết ơn. Dorcas trở nên thân thiện khác thường kể từ khi Belle đi khỏi.
Chuông reng, Emma cẩn thận gấp sợi dây nịt lại và cất vô giỏ xách. Nó sẽ còn phải làm tiếp cho xong vào cuối tuần, cho nên nó gói nắm hột cườm vô chiếc khăn tay và thảy chúng vô trong giỏ xách chung với sợi dây nịt.
Hôm đó là thứ Sáu, và Emma ao ước mong ngóng được về để ngủ một giấc thật lâu trong căn phòng thoải mái của nó ở phía trên tiệm sách.
Charlie không thể chờ nổi để gặp Ollie. Thật ra tất cả những người đã góp phần vô việc giải cứu Ollie đều nôn nao muốn gặp thằng bé. Thậm chí cả Tancred và Lysander cũng sẵn sàng liều mạng với dơi và nhện (nếu chúng xuất hiện) để tận mắt nhìn thằng bé vô hình nay đã trở thành hữu hình.
“Con dơi già ấy chắc chắn đã bay tới tận Transylvania rồi,” Gabriel nói khi chúng chạy ra xe buýt trường.
“Đừng có chủ quan như thế,” Charlie lẩm bẩm.
Có một điều ngạc nhiên đang chờ Charlie ở nhà. Ngoại Maisie đã trở về. Bà đang dùng bữa trà với Ông cậu Paton thì Charlie bước vô.
Sau bao nhiêu là cái ôm và nước mắt (về phía ngoại Maisie), bà ngoại yêu quý của Charlie ấn nó ngồi xuống, và nó xơi một dĩa cá với khoai tây chiên trong khi bà kể cho nó nghe một điều rất thú vị.
“Nghe đi, Charlie,” Ông cậu nói nghiêm trang. “Việc này có lẽ sẽ giải thích được vài điều.”
“Dạ. Nói đi ngoại Maisie,” Charlie nói.
Ngoại Maisie kéo ghế của mình lại gần nó.
“Thế này, Charlie, con biết đấy, ta vừa mới ở chỗ chị Doris của ta về.”
“Bà ấy có đỡ bệnh không ạ,” Charlie hỏi.
“Khoẻ hơn nhiều rồi, cảm ơn con, Charlie. Bà ấy già hơn ta và biết nhiều về gia đình hơn ta. Ta không hiểu tại sao bà ấy lại đợi cho đến khi kề cận cửa thần chết mới nói cho ta biết điều này, nhưng…”
Đúng lúc đó, mẹ Charlie bước vô và một quy trình ôm ấp dài khác lại diễn ra.
“Hãy kiên nhẫn, Charlie,” Ông cậu Platon nói. “Đáng phải đợi lắm.”
Không phải đợi đến khi mẹ Charlie đã yên vị với dĩa cá và khoai tây chiên của mình thì ngoại Maisie mới thấy thích hợp để kể tiếp câu chuyện của mình.
“Ngoại đang nói tới đâu rồi nhỉ?” Bà hỏi.
“Chị của bà lúc đang kề cận cửa thần chết,” Charlie nhắc.
“À phải. Bất thình lình bà ấy bảo. ‘Maisie à, nếu tôi chết thì hãy cứu lấy những giấy tờ ở trên bàn giấy của tôi. Đừng để họ đốt chúng đi.’ ‘Đương nhiên là tôi sẽ không để như thế,’ ngoại vừa đáp vừa vỗ vỗ bàn tay trắng tội nghiệp của bà ấy. Thế rồi bà ấy khăng khăng đòi ngoại lấy giấy tờ ra, và bà ấy bắt đầu phân loại chúng ngay tại chỗ. Thiệt là bừa bộn! Bà ấy đã tích trữ đống giấy vô dụng đó suốt bao nhiêu năm. Hầu hết chúng nằm vương vãi dưới sàn nhà gần giường của bà ấy, và khi ngoại lượm một túi giấy cũ lên thì thấy rớt ra cuộn giấy cũ này.”
Ngoại Maisie ngừng lại và nhìn Charlie đăm đăm.
“Anh ta là hoạ sĩ mà,” bà cô Eustacia nói.
Thầy Boldova được cứu sống kịp thời. Vài phút sau khi thầy được cứu, mái nhà của bà cô Venetia bốc cháy, những bức tường ở lầu trên cùng rớt xuống. Trong tích tắc, những người đang há hốc miệng chứng kiến hình thù của một chiếc dương cầm lớn đen, đậu chót vót trên điểm cao nhất của toà nhà đang cháy. Và rồi, khối nhạc cụ ấy rớt lộn nhào, những phím đàn cháy sém tạo nên một chuỗi âm thanh rợn người khi nó đâm nhào xuống những bậc thang tầng hầm.
“Tôi nhớ rồi,” thầy Boldova nói. “Có ai đó đang chơi đàn dương cầm.”
Nhưng không còn ai sót lại trong toà nhà cháy rụi đó. Những người lính cứu hoả đoan chắc điều đó. Vì vậy, bất cứ ai đang chơi cây đàn khuất dạng đó hẳn đã thoát ra được khỏi ngôi nhà trước khi quá trễ.
“Lạ thật,” thầy Boldova nói. “Tôi chưa bao giờ trông thấy người nghệ sĩ dương cầm, chỉ nghe những điệu nhạc. Thế thôi, những giai điệu mê hồn.”
Charlie nghĩ về ba nó. Có lẽ nào ông bị nhốt ở đó, trong gác mái nhà bà cô Venetia, với chỉ một cây đàn dương cầm? Nếu thế thì bây giờ ông đang ở đâu?
Ông cậu Paton vỗ vai Charlie.
“Mày có điều gì muốn nói với Quý ông này, đúng không Charlie?”
“Con hả?” Charlie mơ màng. “Dạ phải. Đúng rồi.” Và nó kể cho thầy Boldova về Ollie.
“Đây là tin tốt lành nhất tôi từng nghe trong cuộc đời mình,” thầy dạy vẽ nói. “Cậu đưa tôi đến gặp nó được không? Ngay bây giờ? Và cậu vui lòng gọi tôi là Samuel được không? Hãy bỏ phần đời mang tên Boldova của tôi lại phía sau.”
“Dạ được, thưa thầy Sparks,” Charlie nói. “Ollie đang ở không xa đây. Ông cậu của con…”
Nó nhìn quanh, nhưng Ông cậu Paton đã đi mất. Charlie đoán là ông đã quay trở lại tiệm sách cô Ingledew.
Vào Chủ nhật, bảy đứa trẻ cùng với bầu đoàn thú cưng của chúng gặp nhau ở quán Cà Phê Thú Kiểng. Tất cả bọn đều muốn gặp cậu bé vô hình. Mặc đồ mới, tắm rửa sạch sẽ, cắt tóc gọn gàng, trông Ollie hoàn toàn bình thường. Bọn trẻ hình như hơi thất vọng. Nhưng nỗi thất vọng không kéo dài lâu.
“Tôi muốn tất cả các bạn tới chơi Lâu Đài Lấp Lánh,” Ollie nói. “Anh Samuel bảo kỳ nghỉ giữa học kỳ sắp tới rồi, vì vậy các bạn có thể đi một tuần. Lâu lắm rồi tôi không có bạn tới chơi, và nếu không có tất cả các bạn thì tôi đã không có mặt ở đây.”
Ai còn màng đến học lời thoại, tập hoà âm hay vẽ phông nền nữa, khi mà cả một tuần lễ sẽ được trôi qua trong một toà lâu đài.
“Nó không hẳn là một lâu đài,” Ollie nói. “Nhưng có rất nhiều phòng. Và có cả núi, cả suối, cả rừng, và cả cánh đồng nữa.”
Nghe sao mà hấp dẫn quá.
Lời ước của Charlie đã được thực hiện. Ông cậu Paton thuê một chiếc xe tải nhỏ. Ông cậu sẽ không mua một chiếc như thế đâu, ông nói, bởi vì nó không hợp với gu của Ông cậu. Nhưng để chở tám đứa trẻ và một thầy giáo dạy vẽ, một cô bán sách, và một con chó… thì đúng là rất cần đến xe tải.
Tất cả mọi người hẹn gặp nhau ở tiệm sách vào thứ Bảy sau đó. Sau khi trời tối, Ông cậu Paton xuất hiện trong chiếc xe tải dài màu bạc. Hành lý và những túi ngủ được gói ghém gọn gàng sau xe, bánh mì và nước uống được tống dưới gầm ghế và tất cả mọi người dồn vô trong xe.
Cô Ingledew ngồi cạnh Ông cậu Paton ở đằng trước. Charlie và Fidelio ngồi với anh em nhà Sparks ở hàng ghế kế tiếp, với Hạt Đậu nằm vắt ngang qua đầu gối họ. Năm đứa còn lại chen chúc nhau ở đằng sau.
Khi họ rời khỏi thành phố lấp lánh ánh đèn phía sau và đi vô những con lộ nhỏ tối, Ollie nói:
“Còn cậu bé kia đâu rồi? Cậu bé làm cho con trăn thay đổi ấy?”
Charlie cảm thấy tội nghiệp Billy.
“Họ không cho nó rời khỏi Học viện,” Charlie nói. “Nhưng một ngày nào đó tụi mình sẽ đưa nó ra. Mọi người biết đấy, Billy có khi còn dũng cảm hơn bất cứ ai trong chúng ta.”
Có tiếng râm ran đồng ý từ mấy đứa kia, nhưng trước khi tâm trạng cả bọn trở nên quá uỷ mị, Gabriel bảo:
“Thật ra ngay lúc này Billy rất vui. Anh đã ráng mang Rembrandt vô khu nhà bếp. Anh bảo đảm là chúng đang vui vẻ với nhau. À mà này, May Phúc đã có đuôi trở lại rồi. Bà bếp trưởng đã đem nó tới gặp con trăn.”
Thầy Samuel Sparks nói thầy rất vui khi biết Rembrandt đã có người để chuyện trò. Trước kia thầy không bao giờ biết chắc là con chuột đó có hạnh phúc hay không.
“Thầy nghĩ là nó không thích những cái này,” thầy Samuel nói.
Rồi thầy lôi hai viên sỏi ra khỏi túi và để cho chúng loé sáng trong lòng bàn tay mình.
“Thú vật không thích phép thuật,” Gabriel nói.
Lập tức, con Hạt Đậu nhỏm đứng lên đầu gối Charlie và tru lên một tràng dài.
“Mày đồng ý hả?” Gabriel nói, và tất cả mọi người cùng cười.
Đó là một cuộc hành trình dài, và bao nhiêu lần Charlie ngủ thiếp đi. Nó choàng tỉnh dậy mỗi khi Hạt Đậu liếm mặt nó hoặc thay đổi tư thế. Nhưng lần cuối cùng Charlie thức giấc, chiếc xe nảy một cái thật mạnh và dừng lại. Họ đến một ngã ba đường. Và nhìn qua cửa sổ, Charlie thấy một bảng chỉ đường. Có hai cái tên ở trên cùng. Mũi tên bên trái đề ĐÁ LẤP LÁNH và mũi tên bên phải đề ĐƯỜNG YOR.
“Đường Yor?” Charlie nói gà gật. “Nghĩa là gì?”
“Là con đường dẫn tới Lâu Đài Yewbeam,” Ông cậu Paton nói nghiêm trang.
Charlie cảm thấy cái gì đó sợ hãi, ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng. Yorath đã nói gì với Ông cậu? “Nếu mày làm hại con gái yêu của ta thì mày phải trả giá bằng mạng sống của mày.” Và Ông cậu Paton đã làm hại mụ Yolanda. Vậy lão Yorath sẽ làm gì? Tốt hơn không nghĩ đến chuyện đó vội, Charlie quyết định.
Cô Ingledew đặt một bàn tay mình lên những ngón tay rắn chắc của Ông cậu Paton, và ông quay qua cô, mỉm cười.
“Đó là con đường chúng ta sẽ không tới,” Ông cậu nói.
Chiếc xe tròng trành tiến lên trước và đi theo mũi tên tới Đá Lấp Lánh. Con đường trở nên dốc và ngoằn ngoèo, nhưng họ chỉ phải đi thêm một chút, Ollie đã thét lên:
“Kia rồi! Chúng ta đã về nhà!”
Và đúng là nó, sừng sững ngay trên đồi dốc đứng trước mặt: lâu đài Lấp Lánh. Và nó sáng lấp lánh thật. Trong mỗi cửa sổ của ngôi nhà lạ kỳ, nhấp nhô đầy những tháp nhỏ ấy đều có một dãy đèn loé sáng, nhấp nháy.
Một cậu bé bị mất tích đang về nhà, và người cha đã tìm lại được tài phát sáng đá của mình.