Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình
Chương 4 :
Ngày đăng: 15:21 19/04/20
KẺ BIẾN HÌNH
Vào những ngày chủ nhật, khi mà hầu hết bọn trẻ đang thoải mái ngủ một đêm yên lành ở nhà, thì Billy Raven thường đi vơ vẩn trong những hành lang tối như bưng và những khu vực trống vắng của Học viện Bloor. Chỉ còn một đứa trẻ khác nữa ở trong tòa nhà này là Manfred Bloor, nhưng giờ hắn đã mười tám tuổi, kể như không còn là con nít, và vào những ngày cuối tuần, hắn thường tự giam mình ở trong chái phía tây cùng với cha hắn và lão già Ezekiel, ông cố hắn.
Thỉnh thoảng, nếu Billy tiết lộ cho hắn một mẩu tin thú vị, chẳng hạn như tin gì đó về Charlie Bone, thì Manfred có thể sẽ thưởng cho thằng bé một thanh sô-cô-la. Và nếu thằng bé làm được việc gì mà lão Ezekiel Bloor sai bảo, thì lão già khụ này sẽ đãi nó một ly ca cao vào giữa khuya.
Hôm nay là sinh nhật thứ tám của Billy, nhưng cho đến lúc này thì không ai nhớ ra điều đó. Năm ngoái, bà bếp trưởng đã làm cho nó một chiếc bánh, nhưng gia đình Bloor để mặc cho ngày đó trôi qua chỉ với một câu “ Chúc mừng sinh nhật, Billy”, không hơn.
Người ta có lẽ sẽ thắc mắc làm sao mà Billy biết được ngày sinh của nó. Dù gì cũng không ai nhắc tới sinh nhật nó kể từ năm nó một tuổi. Billly biết, vì ngày đó luôn ghi khắc sâu đậm trong đầu nó. Billy biết, bởi vì những con vật biết và chúng đã nói cho nó biết.
Khi cha mẹ Billy mất thì nó vẫn còn ẵm ngửa. Nó được một người cô tử tế nhưng nghiêm khắc nuôi dưỡng. Khi Billy được hai tuổi, một chiếc bánh kem tuyệt đẹp được gởi đến theo đường bưu điện. Con chó của cô nó ăn mất, cả bánh lẫn đèn cầy. Vì tội này mà con chó bị một trận đòn, và kèm theo cả con mèo nữa cũng bị đánh.
Vào ngày 4 tháng 5, khi Billy được ba tuổi, con chó và con mèo đó cùng nhắc nó:
“Ngày bánh, Billy!”
Nhưng chẳng có chiếc bánh nào tới. Sự việc cũng xảy ra tương tự khi Billy bốn tuổi, rồi năm tuổi. Tính cho tới lúc ấy, Billy và các con vật đã thường hay trò chuyện lâu với nhau, mà cô nó không nghe thấy. Khi Billy được sáu tuổi, nó bỗng hỏi cô nó:
“Hôm nay con sẽ có bánh chứ?”
Cô nó hỏi lại:
“Ai bảo cho mày biết hôm nay là ngày sinh nhật của mày?”
“Con chó và con mèo,” Billy thật thà.
Cô nó sững sờ:
“Vậy là, mày có thể nói chuyện được với thú vật?”
“Dạ phải,” Billy xác nhận, nghĩ rằng đó là điều mà tất cả mọi người đều biết làm. “ Con nói chuyện với chúng hoài.”
Cô nó không nói thêm gì nữa, nhưng vào đúng tuần sau, Billy được gửi tới Học viện Bloor.
Nó cô đơn trong tòa nhà đồ sộ, tối hù này. Nó luôn cảm thấy hoang mang, bối rối, và rồi nó bắt đầu nghĩ rằng người ta đang cố ý giấu giếm nó mọi thứ. Họ không muốn nó biết nó thật sự là ai. Tuy nhiên, bà bếp trưởng lại rất nhân từ, và nó thường xuyên nói chuyện với con chó May Phúc, một con chó già, mập ú và có cái đuôi trụi lủi.
May Phúc chắc hẳn là rất xấu xí, dẫu vậy Bill rất yêu quý nó. Con chó già này luôn có thời gian để lắng nghe Billy.
Học kỳ vừa rồi Billy đã đá May Phúc, nhưng nó không cố ý. Chỉ là sự việc cứ thế xảy ra, và Billy hối hận ghê lắm. May Phúc có lẽ sẽ không nói chuyện với nó nữa, chỉ còn lũ chuột nhắt, và thỉnh thoảng một con chuột cống, để nói chuyện cùng. Bọn chuột nhắt chán phèo, chúng chỉ quan tâm đến đồ ăn với lại con nít mới sinh. Chuột cống có khá hơn. Thầy Boldova có một con chuột đen hay cà rỡn. Tên nó là Rembrandt.
Hôm nay thầy Boldova đã đem Rembrandt đi dạo rồi. Billy tự hỏi họ đi đâu. Hy vọng sẽ được chiêu đãi món gì đó, nó bắt đầu lần mò đi lên lầu trên cùng của chái phía tây, nơi lão Ezekiel Bloor sống. Lão già này có một căn phòng rộng mênh mông, ẩm mốc, chất toàn những đồ cổ lỗ: bình và lọ, xương và gươm, cùng những hũ ngâm con gì đó chết. Lão Ezekiel là một phù thủy, nhưng không phải là phù thủy tài giỏi cho lắm.
Billy vừa lên hết một phần cầu thang chật hẹp thì nghe thấy một tiếng rú. Nó ngó xuống hành lang dài, thắp sáng bằng đèn khí, dẫn tới phòng lão Ezekiel. Có cái gì đó đang lao về phía nó : một con chó mập lùn đang ngỏng cổ tru thảm thiết.
“May Phúc!” Billy ậm ừ bằng ngôn ngữ của chó. “ Chuyện gì vậy?”
“Đuôi! Đuôi!” May Phúc hét ầm. “ Đuôi đau!”
Con chó già chạy lại chỗ Billy.
“Cậu có thấy không?” Nó đứng lên bằng hai chân sau.
May Phúc đã từng có một cái đuôi trụi lủi, xấu chưa từng thấy. Thứ mà hôm nay trông càng xấu tệ. Một mẩu thịt hồng, tí nị lòi ra ở mông.
“Đuôi sót lại không còn bao nhiêu, tao nghĩ thế,” Billy nói. “ Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Rắn,” May Phúc nói. “Rắn xanh da trời. May Phúc cắn rắn. Lão Ezekiel bảo ‘không’. Rắn siết đuôi. May Phúc chạy.”
“Hình như nó cắn đứt đuôi mày rồi,” Billy nhận xét.
“Không, không, không! Đuôi vẫn còn đó,” May Phúc tru lên. “ Bị nghiến. Bị siết. Ối đau!”
“Thật mà, không có đuôi ở đó mà,” Billy nói.
“Láo!” May Phúc rú vang. “Nói bà bếp trưởng”.
Billy không thích cái vụ con rắn xanh da trời này. Nó quyết định không đi tới chỗ lão Ezekiel nữa. Thay vào đó nó sẽ đi kiếm bà bếp trưởng.
Billy chắc chắn sẽ không bao giờ quên ngày sinh nhật lần thứ tám của mình. Nó không nhận được thiệp hay quà. Nó thậm chí còn không tới được nhà bếp, chỗ của bà bếp trưởng. Có chuyện xảy ra trên đường nó tới đó. Nó đang bước qua chiếu nghỉ phía trên tiền sảnh thì thấy nữ sinh mới, Belle, xuất hiện. Con bé xổ ra từ một cánh cửa nhỏ dẫn lên tháp nhạc. Hầu như cùng lúc, thầy Boldova bước ra khỏi phòng để áo khoác xanh lá cây ở đầu bên kia tiền sảnh.
Đứa con gái và thầy giáo hội họa trố mắt nhìn nhau một thoáng. Bất thình lình Belle lên tiếng:
“Chào Samuel Sparks.”
Thầy giáo hội họa đáp:
“Vậy bà là…”
“Có đoán ra ta là ai thì cũng không có phần thưởng đâu.”
Belle cười khành khạch. Giọng đứa con gái nghe già và trầm đục.
“Yolanda,” thầy giáo thì thào, như thể thầy sợ cái tên ấy.
“Phải!”
Đứa con gái vung cánh tay lên, và khi nó làm vậy, một bức màn xám giống như làn khói mỏng phụt lên, bắt đầu cuồn cuộn quanh cơ thể.
“Mi thấy ta thì cho mi khỏi thấy luôn”
“Rủi quá, ta vẫn thấy bà,” thầy dạy vẽ lầm bầm.
“Samuel khốn khổ kia. Mi tới để kiếm thằng nhóc em của mi phải không? Hừ, đừng hòng bao giờ kiếm được nó.”
Belle đang biến đổi hình dạng. Những bụi tóc trắng phun vô những lọn tóc vàng, những nét thanh tú giãn ra và méo xệch đi, rồi nó từ từ cao lên, cao lên. Giờ, cô nữ sinh đã biến thành một mụ già da vàng ệch, lõng thõng nhiều đụn thịt dưới cằm và một chóp mũi to xụ, sần xùi.
Billy không muốn xem tiếp. Nhưng nó không thể điều khiển được bản thân. Nó khuỵu xuống và lõ mắt nhìn ra giữa những thanh vịn cầu thang bằng gỗ sồi.
Thầy Boldova tiến lại gần mụ phù thủy. Thầy rút cái gì đó ra khỏi túi quần và xòe bàn tay ra. Một nắm đá nhỏ nằm trong lòng bàn tay thầy, từ từ chúng bắt đầu phát sáng, và rồi, một quầng sáng đỏ bùng lên khỏi bàn tay thầy.
Billy há hốc miệng, mắt kính tuột khỏi mũi, và nó cố ráng chụp lại kịp. Hai người kia quá tập trung vào nhau nên chẳng ai chú ý tới nó.
“Cái thứ đó sẽ chẳng giúp được mày đâu, Sparks,” mụ Yolanda châm chọc. “Ollie là một thằng quỷ tọc mạch, nó phải bị trừng phạt. Và bây giờ đến lượt ta phải trừng phạt mi.”
“Để coi!”
Thầy Boldova nâng nắm tay lên và liệng mớ đá đang cháy vô mụ già. Mụ ta hét lên khi tóc và một chút quần áo xám của mụ bắt đầu bốc cháy, và rồi, bằng giọng đùng đục, ớn lạnh, mụ ta gầm lên:
“Đồ chết tiệt!”
Mụ nhìn thầy giáo trừng trừng. Trừng mắt rồi lại trừng mắt. Thầy giáo tiến một bước về phía mụ già và chúi nhủi. Thầy bước thêm một bước nữa và dừng lại. Mặt thầy trắng bợt, mắt thầy lộ vẻ hãi hùng và dại đi. Tuyệt vọng, thầy lần tay vô túi quần, lần tìm thêm đá lửa, nhưng thầy không thể rút tay ra được. Thầy không thể cử động. Xem ra thầy đã ngừng thở rồi.
“Thế sẽ dạy cho mày một bài học,” Yolanda rít lên.
Mụ vuốt vuốt tóc và phủi phủi những vết cháy xém trên váy, rồi quay gót và biến mất sau cánh cửa dẫn lên tháp nhạc, để lại thầy Boldova im lìm và cứng đờ như một bức tượng.
Thình lình, có một tiếng chít lớn, một con chuột đen nhảy ra khỏi túi quần thầy Boldova và chạy băng qua tiền sảnh. Nó bắt đầu nhảy lên các bậc thang, và khi lên hết cầu thang, nó phóng lẹ tới chỗ Billy.
“Cứu!” Con chuột la chít chít.
“Cứu! Cứu!” Nó ngước nhìn lên Billy khẩn nài. “Cứu Rembrandt!” Nó rú lên. “Cứu chủ nhân!”.
“Để tao coi,” Billy nói. Nó lượm con chuột lên và bước chầm chậm dọc theo chiếu nghỉ. Thầy dạy vẽ vẫn chưa cựa quậy. Billy chạy xuống dãy cầu thang rộng. Những hòn đá cháy nằm vương vãi khắp tiền sảnh và Billy phải bước len lỏi giữa chúng. Lúc này những hòn đá đang dần mất đi màu sắc, vài hòn đá đã ngả màu xám tro, trông xỉn như than.
Thầy Boldova hình như không trông thấy Billy. Thằng bé tóc trắng tiến lại gần hơn và nói:
“Thưa thầy, con chuột của thầy này,” nó trao Rembrandt cho thầy.
“Cái gì?” Thầy Boldova nhìn lom lom Rembrandt. “Cái gì đây?”
“Con chuột của thầy,” Billy lập lại.
“Tôi không có chuột.”
Rembrandt chít lên một tiếng não nề.
“Đúng nó là của thầy mà, tên nó là Rembrandt.”
Thầy Boldova bắt đầu nhúc nhích, nhưng rõ ràng thầy không còn là thầy nữa. Thầy quay người và bước đi về hướng ngược lại.
“Vứt nó đi!” Thầy hét. “Thảy nó vô thùng rác!”
Nếu chuột có thể ngất xỉu thì hình như Rembrandt đã xỉu rồi. Dường như thế thật, nó nằm bất động, mềm oặt. Billy nhét con chuột và dưới chiếc áo len chui đầu của nó và chạy lên phòng ngủ chung.
“Đi rồi,” con chuột lào khào khi Billy nằm kềnh ra giường.
“Cái gì đi rồi?” Billy nói. “Ý mày là thầy Boldova hả?”
“Chết,” Rembrandt nói. “Ánh sáng đi rồi.”
Billy hiểu ra ý của con chuột muốn nói gì.
“Ý mày là con người thật của thầy phải không? Linh hồn của thầy ấy?”
Rembrandt thở dài.
Billy bàng hoàng trước những gì vừa chứng kiến, đến nỗi nó không sao ngừng run lập cập được. Belle không phải là một nữ sinh gì hết, mà là một bà già, già khú khụ. Bà ta vừa thay hình đổi dạng, nhưng bà ta cũng làm cái gì đó thật kinh khủng với thầy Boldova. Belle là kẻ thôi miên, giống như Manfred Bloor.
“Hai phép thuật một lúc.”
Billy lẩm bẩm một mình. Nó nằm ngửa trên giường và nhắm mắt lại. Nó ước gì có thể về nhà và nói chuyện với ai đó. Nhưng nó không có nhà để về. Lão Ezekiel đã hứa với nó là nó sẽ được nhận làm con nuôi, nhưng cha mẹ tử tế mà lão nhắc tới đó không bao giờ tới cả.
“Nói với bà bếp trưởng,” một giọng vang lên.
Billy mở mắt ra. Con chuột đang ngồi trên ngực nó, nhìn nó chăm chăm.
“Nói với bà bếp trưởng,” con chuột nhắc lại. “Bà bếp trưởng biết rất nhiều chuyện.”
Nghe nhắc tới bà bếp trưởng, Billy chợt nhận ra nó đang đói bụng cồn cào. Nó bèn tuột khỏi giường, đút Rembrandt vào dưới lớp áo len, rời khỏi phòng ngủ chung và rón rén đi xuống lầu.
Khi ra tới tiền sảnh, nó thấy đèn đã bật sáng và những mẩu than cháy lụi đã được dọn dẹp sạch. Thật khó mà tin rằng chỉ một giờ trước thôi, nơi đây đã diễn ra một trận chiến biến hình và quăng đá lửa. Billy vội vã đi về phía sảnh ăn tối. Nhưng khi nó đi ngang qua phòng huynh trưởng thì Manfred Bloor xồ ra.
“À, mày đây rồi, Billy,” thằng huynh trưởng nói. “Trông mày lén lút vậy. Có gì xảy ra không?”
“Mang nó ở trong…?”
Charlie tính nói là “mỏ” nhưng không nói ra được.
“Miệng,” Emma đáp, thảy cho nó một cái nhìn thật tức cười.
“Bồ có kiếm ra cửa sổ phía trên phòng điêu khắc không? Charlie nói khẽ.
“Cuối cùng cũng kiếm ra được. Cám ơn nhé.” Emma lại ngáp cái nữa.
“Đó là nhờ anh Tancred.”
Chúng đã tới nhà ăn lớn, ở đây chúng phải tách ra, mỗi đứa đi về phía bàn ăn của khoe mình. Charlie nhận thấy Emma phải ngồi sát bên Belle. Nó thấy lo lắng cho bạn. Giả sử ai đó kiếm ra tờ giấy Emma viết thì sao? Nếu gia đình Bloor biết Emma đang cố tìm cách cứu Ollie, thì ai mà biết họ có thể sẽ làm gì.
Mình mừng là nó biết bay, Charlie nghĩ.
Ngồi kế bên, Fidelio vừa làm xong muỗng cháo yến mạch cuối cùng của nó.
“Chắc chắn là có việc xảy ra mà anh cần phải biết, Charlie,” nó nói. “m nhạc chiếm hết cuộc sống của anh rồi, nhưng anh vẫn muốn biết việc gì xảy ra với tất cả mọi người.”
“Chủ nhật này anh tới quán Cà Phê Thú Kiểng đi,” Charlie nói. “Tất cả đều sẽ tới đó. Có khi còn có cả anh Tancred và Lysander nữa.”
Nó nhận thấy Billy đang dòm nó từ phía bàn đối diện.
“Và cả Billy,” nó thêm.
“Billy?” Fidelio hạ thấp giọng. “Vậy có khôn ngoan không?”
Charlie nhún vai. “Em nghĩ nó đang đổi chiều, anh hiểu em nói gì rồi đó.”
“Ừm” Fidelio nói.
Giờ nghỉ giải lao đầu tiên, trong khi những đứa khác đang tập tành cho vở kịch, Charlie giúp Emma kiếm mẩu giấy mà con bé đã làm rớt. Charlie vừa mới hé nhìn vô bụi cây bên cạnh cửa vườn thì Belle và Dorcas bước lại gần.
“Tôi không biết là bạn quan tâm đến nghề làm vườn đấy, Charlie,” Belle lên tiếng.
“Nghề gì?” Charlie hỏi.
“Thôi bỏ. Bạn đang kiếm gì đó?”
“Không kiếm gì cả.”
Charlie đút hai tay vô túi quần và bước đi khỏi. Nó nhóng tìm Tancred và Lysander nhưng chẳng thấy hai anh đâu. Có lẽ Lysander tranh thủ đẽo tượng. Cả Billy cũng biệt dạng, nhưng thằng bé còn có con chuột đen để cho ăn và vỗ về.
Một vài phút trước khi hết giờ giải lao, Charlie gặp Emma. Con bé vẫn chưa kiếm ra tờ giấy.
“Mình chắc là nó đã bay vô trong cái sân gạch rồi,” Emma nói.
Đây là tin xấu. Không đứa trẻ nào có thể ra ngoài đó được, một khi cổng chính đã đóng lại sáng thứ Hai.
“Mẩu giấy ghi cái gì vậy?” Charlie hỏi.
Emma cắn môi:
“Đừng mất hy vọng, Ollie. Chúng tôi không quên bạn đâu. E.”
“E? Chỉ E thôi à? Charlie nói. “Vậy thì có gì đáng lo đâu?”
“E tức là Emma,” Emma rầu rĩ. “Họ sẽ biết cho coi.”
“Thôi thì mình cứ hy vọng là họ không kiếm ra nó,” Charlie nói.
Tiết học tiếp theo của Charlie là tiết lịch sử, và như thường lệ, nó thấy khó mà tập trung được. Hên mà thầy Pope không hỏi nó câu nào. Xem ra thầy đã hết đường trông cậy vô nó – mà như vậy cũng được, bởi vì cùng một lúc nó còn phải vật lộn với nhiều vấn đề khác, và không có cái nào trong số đó liên quan tới Napoleon.
Vậy thì, đó là gì? Rõ ràng là gia đình Bloor, và Belle nữa, dĩ nhiên rồi. Nhưng gã Weedon, người làm vườn cũng là một kẻ rầy rà, không đáng tin cậy. Và bà giám thị, bà cô Lucretia của Charlie cũng rõ là kẻ thù. Những giáo viên còn lại thì sao? Thật khó đoán. Phải chi có ông cậu Paton để mà trò chuyện, nhưng Ông cậu vẫn biệt vô âm tín.
Charlie chưa kịp nghĩ cho ra đầu ra cuối thì buổi học đã hết, và thầy Pope đang quát om lên:
“Một bài học nữa vừa trôi qua trước mặt trò đấy, Charlie Bone. Ngay sáng thứ Hai tới sẽ có bài kiểm tra về những chiến dịch của Napoleon. Nếu trò không làm được hơn bảy mươi phần trăm thì trò sẽ bị cấm túc.
Quai hàm Charlie trễ xuống. Điều này có nghĩa là toàn bộ thời gian cuối tuần sẽ phung phí vô việc học thuộc những ngày tháng năm. Nó gom sách vở và âu sầu bước ra khỏi phòng học lịch sử.
Bọn trẻ khác cũng phải đối mặt với cùng một vấn đề. Tin tức về những bài kiểm tra nổi lên khắp nới. Rõ ràng các thầy cô đều đang trong cơn sốt kiểm tra. Có rất ít những gương mặt hoan hỉ trong bữa ăn tối hôm đó.
“Chắc tụi mình không tới được quán Cà Phê Thú Kiểng quá,” Gabriel nói, ngó lom lom một cách ủ dột vô món xúp của mình.
“Em không nghĩ vậy,” Charlie nói.
Billy chồm qua bàn:
“Em vẫn về nhà anh được chứ?” Nó khẩn khoản.
Charlie không có lòng dạ nào mà từ chối thằng bé.
“Dĩ nhiên. Em có thể kiểm tra ngày tháng năm giúp anh.”
Billy rạng rỡ:
“Nhất trí.”
Vào thứ Sáu, Charlie nghe tin về tiến triển trong công việc điêu khắc của Lysander. Nó và Emma bị cuốn vô dòng trẻ nít tất tả lao về những phòng ngủ chung để thu dọn túi xách như thường lệ. Bất chấp những bài kiểm tra đang treo trên đầu, tiếng rì rào vui sướng vẫn vỡ òa. Không ai còn chán nản khi trước mắt có tới hai ngày và ba đêm tự do, đáng mong đợi. Những cầu thang được bước hai bậc một, những hành lang tối rộn vang những bước chân cập rập cùng tiếng nói cười hớn hở.
“Tối qua mình trông thấy bức tượng rồi,” Emma thì thào với Charlie. “Tuyệt không thể chê được, y hệt như một cậu bé thật. Anh Lysander vừa bắt đầu sơn. Chỉ còn vài ngày nữa thôi là tất cả đã sẵn sàng.”
“Làm sao anh ấy giấu nó bí mật được?” Charlie hỏi.
“Ban ngày anh ấy chỉ việc phủ một tấm vải lên. Thầy Marson không bao giờ để ý tới. Thầy quá mải mê với tác phẩm điêu khắc của thầy rồi mà.”
“Belle ở khoa hội họa,” Charlie lo ngại.
“Không cần phải nhắc. Nhưng theo như mình biết thì nó chưa trông thấy bức tượng.”
Chúng rẽ ra ở một chân cầu thang khác, và Charlie đi kiếm Billy.
Đúng là Belle chưa trông thấy tác phẩm của Lysander, nhưng con nhỏ đã cảm giác được là có bức tượng. Đơn giản là nó đang chờ thời cơ thôi. Ngay khi tất cả bọn trẻ đã leo hết lên xe buýt trường, Belle đi vô phòng điêu khắc. Thầy Marson đang hí húi đẽo một tảng đá ở bên cửa sổ. Thầy thậm chí còn không trông thấy Belle. Nó bước tới tấm trải màu trắng, trùm kín cái gì đó có kích thước cỡ bằng người nó. Belle lật tấm vải ra. Một thằng bé đứng sựng ngay trước mặt nó. Không hẳn là một thằng bé, nhưng có cái gì đó giống đến nỗi khó tin đó không phải là người thật.
Thằng bé có mái tóc nâu, mắt xanh thẳm. Miệng hơi nhỏ và cái mũi cũng nhỏ, một cái mũi ưa tọc mạch. Thằng bé mặc áo chùng xanh da trời. Theo như Belle thấy, thì quần áo dưới áo chùng lại chưa được sơn. Giầy và quần là màu gỗ sáng.
“Ra thế,” Belle lẩm bẩm. “Trò chơi của bọn chúng đây.”
Charlie và Billy xuống xe buýt ở cuối đường Filbert. Rembrandt đã ngủ say dưới chiếc áo len của Billy, nhưng rõ ràng là nó đang gặp ác mộng. Thân hình nó cứ co giật và kêu chít chít trong khi ngủ. Billy đoán rằng con chuột đen bị tổn thương ghê gớm vì bị thầy Boldova khước từ.
“Em sẽ phải đền bù cho nó đấy, Billy,” Charlie nói. “Bây giờ em là người bạn thân thiết nhất của nó.”
Billy lộ vẻ ngạc nhiên lẫn vui mừng:
“Em cũng nghĩ thế.”
“Anh sợ là mẹ anh không biết em tới,” Charlie báo cho nó. “Mẹ anh đi làm suốt ngày thứ Bảy và mãi bốn giờ mới về nhà.”
“Không sao,” Billy vui sướng nói.
“Mẹ có để lại cho tụi mình nhiều đồ ăn.”
“Tốt. Em có thể cho Rembrandt một ít không?”
“Dĩ nhiên. Đừng để bà nội anh trông thấy nó. Bà căm ghét thú vật lắm. Chắc chắn bà sẽ giết nó đấy.”
“Ối,” Billy sợ hãi.
Còn khoản hai mươi bước nữa thì về tới nhà, Charlie chợt nhận thấy có một chiếc xe hơi đậu bên lề đường bên ngoài căn số 9. Nhìn màu xe thì có thể bảo nó là màu đen. Nhưng nhìn kỹ lại nó không phải đen. Chắc hẳn là nó màu xanh đậm, nhưng lại lấm đầy bùn với bụi tro… Hình như nó bị rỉ sét nữa? Hay là chiếc xe này đã bị nhấn chìm trong lửa? Thanh cản bị cong vẹo và kính chắn gió vỡ tan.
“Trông như xe từ địa ngục,” Billy nhận xét.
“Hoặc đã đi qua địa ngục,” Charlie nói. “ Nó là xe của Ông cậu anh đấy.”
Hai thằng bé phóng suốt con đường Filbert. Khi chúng tới căn số 9, Charlie lao huỳnh huỵch lên những bậc cấp và bươn vô nhà. Billy thận trọng theo sau.
“Không có ai ở nhà,” từ trong bếp, Charlie la lớn.
Billy nhìn Charlie băng qua hành lang và bắt đầu leo lên lầu.
“Em ở đây nha?” Billy rụt rè hỏi.
“Không. Không sao đâu. Lên đây đi.”
Charlie không muốn đi vô phòng Ông cậu một mình. Tấm biển XIN ĐỪNG QUẤY RẦY nằm chỏng chơ dưới đất, tay nắm bị vẹo cong gần như bẹp oặt lại, cứ như ai đó đã nắm rị lấy nó để tựa vô. Những dấu hiệu báo điềm gở đến nỗi Charlie không biết phải làm gì, nó nên gõ cửa hay cứ thế bước vô?
“Em thì em gõ cửa,” Billy khuyên.
Charlie gõ. Một lần. Hai lần. Ba lần.
Không có động tĩnh gì bên trong căn phòng.
Charlie nín thở, mở cửa và bước vô. Billy chỉ đặt một chân vô trong, và đứng chờ, tay nó nắm lấy con chuột đen.
Thứ đầu tiên mà Charlie nhìn thấy là cây gậy phép, nó nằm trên bàn viết của Ông cậu Paton. Chiếc gậy trước kia thanh mảnh, trắng ngà, giờ hầu như không thể nhận ra được, nhưng Charlie nhận ra nó nhờ kích thước và cái đầu bịt bạc bị lõm. Phần lớn còn lại của cây gậy bị cháy đen thành than và đen thui.
“Chuyện gì xảy ra vậy?” Nó lẩm bẩm.
Rất chậm, nó quay đầu về phía chiếc giường và ở đó, Ông cậu của nó, toàn thân một màu đen, đang nằm sóng sượt bên trên tấm trải giường, ông cao đến nỗi đôi bàn chân trong đôi giày bám đầy tro của ông thõng ra ngoài.
Gương mặt bên dưới những vệt bồ hóng của Ông cậu Paton lại trắng bợt như người chết. Tệ hơn cả, mái tóc vốn đen nhánh giờ đã chuyển thành màu xám tro.
“Ông ấy chết rồi hả?” Billy thì thào.
“Không.”
Charlie gằn giọng đáp, nhưng quả tình, nó cũng không chắc. Nó chạm vô vai Ông cậu. Không có phản ứng.
“Ông cậu Paton,” nó gọi nhỏ và rồi gấp gáp hơn, “Làm ơn đi, Ông cậu Paton, nếu có thể thì tỉnh dậy đi.”