Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình

Chương 9 :

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


THẦY PHÙ THỦY TỰ DO TUNG HOÀNH



Charlie chưa bao giờ tới thư phòng của giáo sư Bloor. Dù sợ run, nhưng nó không ngăn nổi tò mò.



“Tôi đã tới đó.” Gabriel bảo khi hai thằng đi theo Billy tới tiền sảnh. “Hồi đó tôi mới vô trường. Tôi phải vô đó để giải thích về vụ quần áo của mình. Phòng đấy thuộc cái kiểu làm mình cảm thấy mình vừa phạm tội xong. Tôi không biết tại sao.”



Manfred và Zelda đang đợi chúng trong tiền sảnh, và dần dần những đứa trẻ có phép thuật khác cũng có mặt: Dorcas và Belle, có Asa kè kè sát đằng sau, thằng này đeo một nụ cười ngờ nghệch; Tancred vẻ hồi hộp, mái tóc vàng nhiễm điện kêu rắc rắc; và Emma với một cây viết chì còn dắt sau tai.



“Bỏ nó xuống!” Zelda sủa. “Chỉnh tề lại coi, con kia. Coi bộ dạng mày giống cái gì kìa?”



Emma có vẻ bối rối, cho đến khi Charlie chỉ vô cây viết chì, con bé vội lấy xuống và đút vô túi, cố gắng vuốt cho phẳng mái tóc vàng.



“A, nhà điêu khắc vĩ đại tới kìa.” Manfred thông báo khi Lysander ủ rũ, lừ đừ đi vô tiền sảnh. “Vui lên coi, rắc rối gì thế, hả?”



“Ông biết rõ quá mà.” Lysander nói đều đều.



Dorcas cười hình hịch, và đôi mắt khủng khiếp của Belle chuyển từ xanh da trời, sang xám, rồi thành tím. Manfred lúng túng một thoáng, ngay sau đó hắn bảo:



“Billy, dẫn đường. Mày biết ở đâu rồi đấy.”



“Thưa vâng, anh Manfred.”



Billy băng qua tiền sảnh, tới cánh cửa dẫn vô chái phía tây. Cánh cửa cũ mở ra ken két, và Charlie, đi ngay sau Billy, thấy mình ở trong hành lang tối mù, ẩm ướt dẫn lên tháp nhạc.



Chúng tới căn phòng hình tròn ở đáy tháp, và đang định leo lên cầu thang ở lầu một thì thấy thầy Pilgrim đang ngồi trên bậc cầu thang thứ hai.



“Thưa thầy.”



Billy nói, nhưng thầy Pilgrim không nhúc nhích. Hình như thầy không nghe thấy tiếng Billy.



“Tụi con phải tới thư phòng giáo sư Bloor, thưa thầy.” Charlie nói.



Thầy Pilgrim nhìn Charlie chằm chằm, lộ vẻ hoang mang.



“Nhiều chuông quá,” Thầy nói. “Sao đổ chuông dữ vậy? Ai chết vậy? Hay là… ta?”



Charlie tính đáp lời, thì Manfred đột nhiên đẩy nó qua một bên, và trợn trừng nhìn xuống thầy dạy nhạc, hắn nói:



“Làm ơn tránh chỗ, thầy Pilgrim. Lẹ coi. Chúng tôi đang vội.”



Thầy Pilgrim vén một lọn tóc đen dày ra khỏi mắt:



“Thế à?” Thầy nói với giọng bướng bỉnh, đáng ngạc nhiên.



“Phải. Tránh chỗ.” Manfred thô lỗ ra lệnh. “Lẹ lên. LẸ!”



Khi hắn nhìn trợn trạo vô thầy Pilgrim, con mắt híp rịp của hắn phóng một tia nhìn sắc lẻm, lạnh toát về phía thầy.



Charlie liếc nhìn đôi mắt đen như than của Manfred và nhớ lại cảm giác bị thôi miên như thế nào. Nó rất muốn báo động cho thầy Pilgrim, để thầy chống lại tia nhìn thôi chột khủng khiếp đó. Người ta vẫn có thể chống lại tia nhìn khủng khiếp đó mà. Chính Charlie đã làm điều đó một lần.



Nhưng dường như thầy Pilgrim không có sức mạnh, cũng không có ý định chống lại Manfred. Rên lên một tiếng thảm não, thầy giáo dạy nhạc đứng dậy và quay lại những bậc cầu thang xoáy hẹp. Bọn trẻ nghe thấy tiếng bước chân của thầy khua tới đỉnh tháp, trong khi Manfred dẫn đường lên lầu một.



Chúng chui qua một cánh cửa thấp, vô một hành lang trải thảm dày nặng. Tại đây, Manfred dừng lại bên ngoài một cánh cửa khác, cánh cửa này được ốp gỗ sồi đen bóng. Hắn gõ cửa hai tiếng và một giọng trầm vang lên:



“Vô đi!”



Manfred mở cửa và lùa tất cả những đứa khác vô phòng.



Đằng sau chiếc bàn cao, rộng, bóng loáng là giáo sư Bloor đang ngồi. Gương mặt rộng xám xịt của ông ta nổi lên dưới ánh đèn bàn màu xanh lá cây. Những tấm rèm đằng sau lưng được kéo lại để che ánh nắng mặt trời, khiến cho căn phòng sách xếp đầy này chìm trong bóng tối âm u. Giáo sư Bloor vẫy tay ra hiệu, và bọn trẻ lệt bệt tiến lên, cho đến khi chúng xếp thành hàng một trước bàn của ông ta.



Con mắt xám lạnh của ông hiệu trưởng quét khắp lượt những khuôn mặt của bọn trẻ, rồi ánh mắt ấy dừng ở chỗ Charlie.



“Tôi muốn biết ai phải chịu trách nhiệm cho chuyện này.” Ông ta ra lệnh bằng giọng lạnh băng.



Cặp giò của Charlie muốn xụm xuống. Nó ghét cái cách giáo sư Bloor nói như buộc tội nó vậy. Nó biết ông hiệu trưởng không có phép thuật, nhưng ông ta cứ làm người ta ấn tượng rằng ông ta có uy quyền mạnh mẽ, rằng ông ta có thể làm bất cứ gì ông ta muốn, và rằng ý chí của ông mạnh mẽ tới độ có thể đè bẹp tất cả mọi thứ, hoặc tất cả mọi người.



“Những hậu duệ của Vua Đỏ,” giáo sư Bloor nhếch mép. “Hãy nhìn các trò kìa! Lũ quỷ sứ! Các trò là vậy đấy.”



Manfred cựa quậy vẻ khó chịu, và Charlie tự hỏi không biết cảm giác bị cha mình gọi là đồ quỷ sứ nó như thế nào.



“Tất cả các trò!”



Giáo sư Bloor nạt, và rồi, liếc qua Belle, sửa lại:



“Hầu hết các trò!”



“Dạ, thưa ngài!” Zelda nói, hơi bạo gan. “Nhưng ý ngài muốn ám chỉ ai phải chịu trách nhiệm cho chuyện tiếng chuông và ếch và vân vân ạ? Tại vì rõ ràng không phải là con. Con bị một con ếch nhảy lên đầu. Đúng là ếch ạ, và chính xác là hai con.”
Ông ta chờ một câu trả lời, nhưng thấy Charlie không trả lời, ông ta liền lặp lại:



“PHẢI KHÔNG?”



Bằng giọng lí nhí, Charlie đáp:



“Vâng, thưa ngài.”



“Đó là ở đâu?”



“Trong lâu đài hoang, thưa ngài.”



Tất cả mọi dao, nĩa chợt im lìm. Tất cả mọi cái miệng đều bất động. Tất cả mọi con mắt đều dán vô Charlie. Và tất cả mọi người trong phòng đều vui mừng mình không phải là Charlie Bone.



“Thế thì trò nên đi ra ngoài đó, đúng không?” giọng giáo sư Bloor giờ rống lên đầy đe dọa.



“Vâng, thưa ngài.”



Charlie liếc qua đống bắp cải của nó rồi rời khỏi nhà ăn.



Ngày nắng sáng đã biến thành âm u và ẩm ướt, và Charlie run cầm cập khi chạy về phía khu lâu đài hoang. Đi vô lâu đài hoang vào ban ngày cùng một người bạn là chuyện khác, đi vô đó một mình khi hoàng hôn buông xuống lại là chuyện khác.



Những bức tường cao, đỏ quạch bị ngập một nửa trong đám rừng. Và khi Charlie bước qua cánh cửa vòm cao, nó dừng lại để thở, và để ra quyết định. Nó đang ở trong một mảng sân lát gạch đối mặt với năm cổng vòm bằng đá, mỗi cổng là một lối khác nhau đi vô lâu đài hoang. Nên chọn lối nào? Cuối cùng, Charlie quyết định đi qua cổng giữa, vì nó biết lối này dẫn tới đâu.



Nó bước vô một lối đi tối tăm, nơi có những sinh vật nhỏ chạy nhốn nháo quanh chân nó, và có những thứ ươn ướt, nhơn nhớt, nhúc nhích giữa những kẽ ngón tay nó khi nó xòe một bàn tay ra để giữ thăng bằng. Cuối cùng, nó ló ra ở một vùng sáng, rồi lại băng qua một khoảng sân gạch khác, đi xuống một dãy cầu thang đá, tới một trảng trống có những bức tượng bể đứng viền quanh. Ở chính giữa trảng trống là một hầm mộ đá. Leo lên nắp mộ rêu phong, Charlie đứng lên và lắng nghe.



Nó hy vọng từ vị trí này, nó sẽ nghe được tiếng cọt kẹt, hay sột soạt gì đó, có thể chỉ ra vị trí của Skarpo. Nhưng thật vô vọng. Những âm thanh ập ra từ tứ phía: tiếng lá xao động, tiếng gạch vỡ, tiếng thờ dài và tiếng những bàn chân tí hon quờ quạng không ngừng.



Charlie nhảy xuống khỏi cái nắp một, rồi bước qua cái vòng tròn tượng đá, tới một lỗ trống trong bức tường phía sau những bức tượng. Nó loạng choạng đi xuyên qua những bụi cây mâm xôi và bụi tầm ma gai góc, lảo đảo bước qua những bước tường đổ, té nhào xuống những bậc cấp ngầm, và rồi nó cất tiếng gọi:



“Sarpo! Skarpo! Ông có ở đó không? Làm ơn, làm ơn nói cho tôi biết. Tôi có thể làm bất cứ việc gì cho ông nếu ông giúp tôi vào lúc này.”



Charlie nhận ra như vậy là thật ẩu và thật liều, nhưng nó đã tuyệt vọng rồi.



Bóng tối đổ xuống những bức tường, cây cối thở than và chim chóc xao xác, kêu thảm thiết trong gió.



Charlie nhìn đồng hồ đeo tay. 9 giờ. Giờ làm bài tập về nhà đã hết. Tất cả bạn bè nó chắc hẳn đã lên giường nằm cả rồi. Giáo sư Bloor không bảo nó bao giờ thì trở về. Hay là ông muốn nó phải ở trong khu nhà đổ nát này suốt cả đêm?



“Không được rồi.”



Charlie lẩm bẩm một mình. Nó biết cái gì vẫn thỉnh thoảng lén lút đi vô khu lâu đài khi trời tối: một thằng bé không phải thằng bé, là Asa Pike đi trên bốn chân, có lông và răng nanh, mắt lóa lên vàng khè, tiếng cười khẩy hằn học biến thành tiếng gầm gừ. Đó là một con thú săn mồi, nhanh nhẹn đến chết người.



Charlie bắt đầu quay trở lại theo dấu chân của chính nó. Lao bừa qua những bụi cây thấp, nó ra được những vành đai tượng nhanh hơn mong đợi. Định băng qua trảng trống thì nó thấy một vật di động trên sân gạch phía bên trên. Charlie vội lẩn vô bụi cây đằng sau một bức tượng. Trong chút tia nắng mặt trời còn leo lét, nó thấy một thứ mà khiến da thịt nó nổi gai ốc lên. Một phụ nữ đứng ở đầu những bậc thang, một bà già khú mặc đầm dài màu trắng; mặt xám, da thịt nhăn nheo như mạng nhện, tóc trắng bệt lại thành những lọn lưa thưa, thả trên đôi vai xương xẩu



“Yolanda.” Charlie nín thở. “Belle.”



Ước chi nó đã không đụng phải bà già, và ước chi nó không gặp con thú xám ngồi chầu hầu trong cái bóng đổ xuống của bà ta. Mắt người phụ nữ nheo híp lại, tựa như đang nhìn thẳng vô Charlie. Bà ta bước đi, con thú liền theo bén gót, như một con chó. Có điều nó không phải là một con chó, một con sói hay một con linh cẩu. Nó là một sinh vật xám, lưng còng, đuôi cụp, mắt vàng và mõm như mõm con lợn rừng đực.



Charlie nhắm mắt lại và nín thở. Chúng giống nhau, nó nghĩ. Asa và Belle. Cả hai kẻ biến hình. Hèn gì, Asa không thể tách khỏi Belle.



Trời tối hẳn khi Charlie cảm thấy đủ an toàn để ra khỏi chỗ nấp. Ngay cả như vậy nó cũng nhích từng chút một. Nhưng khi đã vượt qua những bức tường của khu lâu đài hoang, nó liền phóng như bay qua bãi cỏ và lao mình qua cửa vườn, té nhào xuống những phiến đá của tiền sảnh, như thể nó vừa bị đập bởi búa tạ.



Tòa nhà im như tờ. Charlie lê mình lên phòng ngủ chung và lăn kềnh ra giường.



“Có được gì không?” Fidelio gà gật hỏi.



“Không.” Charlie đáp.



Nó hoảng loạn nghĩ tới hình phạt đang chờ nó. Giờ thì không nghi ngờ gì nó sẽ bị phạt. Làm sao nó có thể tìm ra Skarpo trước chín giờ? Nó tưởng nó sẽ không thể ngủ vì quá lo lắng, nhưng cơn mệt đã thắng nó, ngay khi nó nhắm mắt lại.



Khi tỉnh giấc, Charlie nghĩ nó vừa gặp ác mộng. Trời vẫn tối và phía bên kia phòng ngủ chung, Billy Raven hình như đang lảm nhảm nói chuyện một mình. Có mùi kinh khủng phả khắp phòng.



Damian Smerks lèo nhèo:



“Billy Raven, đuổi con chó ghẻ ra khỏi đây ngay. Nó hôi như địa ngục ấy.”



Thêm mấy tiếng lầm bầm nữa. Có tiếng móng cả trên nền nhà và tiếng cửa đóng mạnh lại.



Charlie nhắm mắt lại tiếp, nhưng lập tức một giọng nói thì thầm bên tai nó:



“Charlie? Charlie anh thức à?”



“Ờ?” Charlie ậm ừ.



“Em đây, Billy. May Phúc đang ở đây. Nó nói là bà bếp trưởng muốn gặp anh. Ngay bây giờ. Rất khẩn cấp.”