Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương

Chương 1 :

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


CHUYỆN MỞ ĐẦU BẰNG...



Vua Đỏ cùng hoàng hậu đang cưỡi ngựa bên bờ biển. Ấy là thời điểm trong năm mà gió lại cuốn theo chút hơi sương. Những đám mây chiều bắt đầu hiện ra; và nơi nào mặt trời tìm được đường len qua màn sương dày, thì nơi ấy nó rắc xuống mặt biển những chùm tia sáng lấp lánh.



Vua và hoàng hậu thúc ngựa quay về, nhưng bất thình lình, hoàng hậu bỗng ghìm cương lại, ngồi bất động trên yên ngựa, nhìn trân trân qua khắp mặt nước. Nhà vua, dõi theo ánh mắt bà, liền chú ý thấy một hòn đảo đẹp mê hồn. Nằm gọn trong vầng sáng mặt trời, nó rực lên hàng ngàn mảng biếc xanh da trời.



“Ôi!” Hoàng hậu thở dài, với giọng sợ hãi.



“Chuyện gì vậy, ái khanh?” Nhà vua bèn hỏi.



Trong những vấn đề liên quan đến con cái, linh cảm của hoàng hậu thường sắc bén hơn trực cảm của nhà vua. Và khi trông thấy hòn đảo toả sáng hàng ngàn dải màu xanh da trời, bà cảm thấy như có một bàn tay băng giá bóp chặt lấy tim mình. “Các con,” giọng bà gần như một tiếng thì thầm.



Nhà vua hỏi vợ xem đứa nào trong chín đứa con của họ khiến bà lo lắng, nhưng hoàng hậu không trả lời được. Thế nhưng, khi họ trở về Lâu đài Đỏ và hoàng hậu trông thấy hai người con trai, Borlath và Amadis, bà liền cảm nhận ngay có điềm gở khủng khíêp. Bà nhìn thấy khói đen nổi lên từ hòn đảo xanh da trời kia, và lửa cháy biến đất đá thành tro bụi. Bà thấy một lâu đài thủy tinh sáng loá hiện ra giữa một cơn bão tuyết; và khi nội nhãn của bà đảo khắp các bức tường thủy tinh của toà lâu đài, bà trông thấy một thanh niên tóc trắng như tuyết đang leo lên khỏi một cái giếng. Anh ta nhắm chặt mắt cho khỏi thấy sự chết chóc đang vây bủa xung quanh mình.



“Chúng ta tuyệt đối không bao giờ được cho các con mình trông thấy hòn đảo ấy,” hoàng hậu nói với nhà vua, “Chúng ta tuyệt đối không được để cho chúng đặt chân lên mảnh đất xanh da trời bị ếm bùa ấy.”



Nhà vua hứa sẽ làm theo. Nhưng chưa đầy một năm sau, hoàng hậu qua đời, và nhà vua, chìm đắm trong đau thương, đã rời bỏ lâu đài và các con của mình. Hoàng hậu mất chín ngày sau khi hạ sinh người con thứ mười của bà, một bé gái tên là Amoret. Một bé gái mà không ai có thể bảo vệ được.



CÁI HẮT HƠI CHẾT NGƯỜI



Nằm ở ngoại vi thành phố, Học viện Bloor đứng sừng sững và im lìm dưới bầu trời đầy sao. Ngày mai, ba trăm đứa trẻ sẽ leo lên những bậc thang giữa hai toà tháp, băng qua mảnh sân gạch, và chen nhau đi qua cánh cửa đôi to lớn bằng gỗ sồi. Nhưng vào lúc này, toà nhà cổ ấy đang hoang vắng tựa như sa mạc.



Nhưng cũng không hẳn thế, nếu qúy vị đứng ở trong khu vườn, nơi đầu đằng kia của học viện, thì qúy vị sẽ không thể không nhận thấy những đốm sáng lạ lùng, thỉnh thoảng lập loè từ những cửa sổ nhỏ trên mái nhà. Và nếu qúy vị có thể nhìn qua được một trong những cửa sổ ấy, hẳn qúy vị sẽ trông thấy Ezekiel Bloor, một lão già khú khụ, đang thành thục đẩy chiếc xe lăn xửa xưa của lão vào một căn phàng quái dị.



Phòng thí nghiệm, như lão Ezekiel thích gọi như thế, là một căn phòng áp mái dài, với những miếng ván lót sàn rộng, bám đầy bụi, và một mái trần lòi hết cả rui nhà. Những chiếc bàn đủ kiểu - chất đầy chai lọ, sách vở, thảo mộc, xương và vũ khí - dựng tựa vào các bức tường; trong khi ở dưới những gầm bàn, một đống ngăn kéo bẩn thỉu thòi ra, xộc xệch, đe doạ sẽ ngáng ngã bất cứ ai đi ngang.



Những nhánh cây thân thảo khô và phai màu thòng xuống từ rui nhà, và những mảnh áo giáp, treo lơ lửng trên những thanh xà ngang to bự, khua xủng xoảng thật ghê rợn mỗi khi có một làn gió quét qua. Lúc này, chúng đang kêu xủng xoảng khi lão Ezekiel Bloor di chuyển qua sàn nhà.



Thằng chắt đích tôn của lão già, Manfred, đang đứng bên cạnh một chiếc bộ ngựa kê ở ngay chính giữa căn phòng. Qua một kì hè, Manfred đã lớn bộn, và lão Ezekiel cảm thấy tự hào rằng thằng chắt của lão đã chọn làm việc chung với lão, chứ không học lên tiếp đại học như những cựu học sinh năm thứ sáu khác. Nên nhớ là, tuy cao đấy, nhưng Manfred lại có một bộ vó gầy guộc, da vàng ệch, nổi đốm, và một gương mặt lồi hết cả xương và hóp tọp.



Vào khoảnh khắc này, mặt Manfred nhăn xoắn lại, tập trung cao độ khi hắn bày một đống xương ra bàn, ngay trước mặt. Phía trên đầu hắn, treo đung đưa bảy ngọn đèn khí được gá vô một vòng sắt, ánh sáng xanh lét của chúng phụt ra tiếng rù rù yếu ớt. Khi trông thấy ông cố, Manfred buông một tiếng thở dài tức tối và rồ lên, “Quá sức tôi rồi. Tôi ghét mấy trò đố mẹo.”



“Đó không phải là đố mẹo,” lão Ezekiel quặc lại. “Mà là xương của Hamaran, một con ngựa chiến có sức mạnh và lòng can đảm phi thường.



“Thế thì sao? Làm sao mà dăm ba cục xương vô tích sự này có thể làm sống lại tổ tiên của ông cố chớ?” Manfred phóng thẳng một tia nhìn khinh miệt vào lão Ezekiel, lão già vội cụp mắt xuống ngay lập tức. Lão không muốn bị chính thằng chắt của mình thôi miên.



Dán chặt mắt vô đống xương, lão già đẩy xe lăn đến gần bàn hơn. Lão Ezekiel Bloor đã một trăm lẻ một tuổi, nhưng những người khác ở vào độ tuổi ấy có lẽ trông vẫn còn da thịt hơn lão nhiều. Đằng này, mặt của lão Ezekiel chỉ khá hơn cái đầu lâu một chút. Mớ răng còn sót lại của lão đều mẻ sứt và đen xỉn cả, và một vài nhúm tóc trắng, thưa rỉnh ló ra dưới chiếc mũ trùm đầu bằng vải nhung đen. Tuy nhiên, đôi mắt lão vẫn phừng phực sức sống – đen và trợn quắc lên, phóng ra những tia dữ tợn cực độ.



“Chúng ta có đủ rồi,” lão già vừa nói vừa chỉ những món đồ khác trên bàn: bộ áo giáp có xích sắt, chiếc mũ giáp, cái áo chùng lông thú màu đen, và chiếc ghim kẹp áo thụng bằng vàng.”Chúng là của ngài Borlath đấy. Ông nội của ta đã tìm thấy chúng trong lâu đài này, tất cả được bọc bằng da, bên trong ngôi mộ. Khung xương không còn nữa, thật đáng tiếc. Chắc chắn là tại lũ chuột,” lão ta vuốt vuốt chiếc áo lông thú đen với vẻ gần như là âu yếm.



Borlath là thần tượng của lão Ezekiel ngay từ khi lão còn là một cậu bé. Những câu chuyện về bậc tổ tiên hiếu chiến ấy đã dần hun đúc trí tưởng tượng của lão, cho đến mức lão tin rằng ngài Borlath có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề cho mình.Dạo gần đây, lão hay mơ thấy ngài Borlath xốc lão ra khỏi xe lăn và cả hai cùng nhau khủng bố thành phố. Rồi đây Charlie Bone và Ông cậu đáng ghét của nó phải coi chừng.


“Gì vậy?”



“Cái thằng ngu chết dẫm đó hắt xì,” lão Ezekiel rít chìn chịt.



“Xin lỗi, xin lỗi. Không thể nào nén được,” Manfred rên rỉ. “Bụi quá.”



“Bụi, bụi cái gì,” bà cô Venetia mắng nhiếc. “Đáng ra cậu phải vứt cái mũi đáng nguyền rủa của cậu ở ngoài chớ. Hư hết việc rồi. Thiệt uổng công.”



“Có lẽ không uổng đâu,” bà Eustacia cắt ngang. “Nhìn cái bàn kìa. Xương biến hết rồi.”



Đám khói đang tan đi nhanh chóng do một luồng khí lạnh thình lình thổi qua, và tất cả bọn họ đều thấy rằng xương của ngựa Hamaran, qủa thật, đã biến mất. Nhưng áo giáp, mũ sắt, áo chùng và chiếc kim kẹp bằng vàng của Borlath vẫn nằm nguyên chỗ cũ, trông thảm hại hơn vì thứ bùa mà chúng vừa phải chịu.



“Khốn kiếp!” Lão Ezekiel gầm gào. Lão dộng nắm đấm xuống bàn và đống trang phục bị cháy xém kia rung lên.”Không được gì rồi.”



“Nhưng tôi lại được việc đấy,” Manfred nói. ”Con ngựa ra ngoài rồi kìa.”



Hắn chỉ vào một cái lỗ toang hoác ở trên tường.



“Chó thật!” Lão Ezekiel rít lên. “Phòng thí nghiệm của tao bị lủng, còn con ngựa chiến thì sổng ra ngoài.”



“Con ngựa chiến với trái tim của bạo chúa,” bà Venetia nói.”Coi, nó biến rồi!”



Chỗ trái tim nằm hồi nãy, giờ chỉ còn lại một cái lỗ cháy đen trong bộ áo giáp đang âm ỉ.



“Vậy nghĩa là sao?” Manfred hỏi, giọng nghẹn lại.



Lão Ezekiel xoa cái mũi dài của lão.



“Nghĩa là không phải tất cả đã mất. Nhưng ta sẽ cần sự giúp đỡ. Ta nghĩ ta sẽ phải cần đến một người bạn của ta, một người có món nợ cần giải quyết.”



Tất cả mọi người nhìn lão, chờ nghe một cái tên, nhưng lão già chưa sẵn sàng làm thoả lòng cả đám.



“Ngựa chiến có thể rất có ích, “ Bà Venetia nói, đầy ưu tư,”miễn là có người cưỡi được nó.”



Tất cả đều nhìn chằm chặp vào khoảng không do đống xương để lại, như thể bắt nó phải lên tiếng, và rồi Manfred nói:



“Billy Raven giỏi nói chuyện với thú vật.”



***



Trong phòng ngủ chung dài hút, bên dưới gác mái của lão Ezekiel ba tầng, Billy Raven choàng tỉnh giấc, đột nhiên thấy sợ hãi. Nó quay mặt ra cửa sổ, định tìm mặt trăng hầu tự trấn an mình, thì thấy một con ngựa trắng bay lướt qua những đám mây rách nát – và biến mất.