Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương

Chương 2 :

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


CON NGỰA MA



Vào ngày đầu tiên của học kì mùa thu, Charlie Bone phóng ào xuống ăn sáng với một chiếc lược thòi ra từ đám tóc.



“Mày nghĩ mày giống cái gì hả?” Từ chỗ ngồi của mình kế lò sưởi, nội Bone nói vọng ra.



“Chắc giống khủng long ạ?” Charlie gợi ý. “Con đã kéo, kéo mãi rồi mà cái lược không chịu ra.”



“Tóc thì như hàng rào,” bà nội xương xẩu của nó càu nhàu. “Chỉnh tề lên coi, cái thằng. Ở Học viện Bloor người ta không ưa thứ bê bối đâu.”



“Lại đây, cún cưng,” một người bà khác của Charlie, hiền hậu hơn, đặt tách trà xuống và giật mạnh cái lược ra. Cái lược bứt ra cùng với một túm tóc của Charlie.



“Ngoại Maisie! Ui da!” Charlie thét lên.



“Xin lỗi, cún cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng phải làm thế thôi.”



“Dạ.” Charlie xoa xoa cái đầu đau của mình. Nó ngồi xuống bên bàn bếp và tự trút ra cho mình một tô cốm bắp.



“Trễ rồi. Mày lỡ xe buýt trường cho coi,” nội Bone làu bàu. “Giáo sư Bloor là người cực khắt khe về vụ đúng giờ.”



Charlie ấn muỗng cốm bắp vô miệng, nói, “Vậy thì sao ạ?”



“Đầy một miệng như thế thì đừng có nói,” nội Bone rầy.



“Cứ mặc nó, Grizelda,” ngoại Maisie nói. “Nó cần phải được ăn sáng ngon lành. Chắc chắn nó sẽ không có được một bữa nào ra hồn trong năm ngày tới.”



Nội Bone khịt mũi và đớp phập vô trái chuối. Đã ba tháng nay bà chưa hề cười; kể từ khi căn nhà của bà em Venetia của bà bị cháy rụi.



Charlie uống gấp ca trà, lẹ làng tròng cái áo khoác và phóng ù lên lầu để vơ mấy cái túi đi học của nó.



“Áo chùng!” Nó tự nói một mình, nhớ ra áo vẫn còn treo trong tủ. Nó kéo cái áo ra và một tấm hình nhỏ bay xuống sàn nhà.



“Benjamin,” nó mỉm cười nhặt tấm hình lên. “Bồ đang ở đâu?”



Trong hình là một cậu bé tóc vàng nhạt đang quỳ bên cạnh một con chó vàng thiệt bự. Chính Charlie đã chụp tấm hình này, ngay trước sinh nhật thứ mười của Benjamin. Lúc này Charlie dùng tài phép để đi vô tấm hình hoàn toàn không phải để thăm thú cảnh trí ở đó. Cảnh trí cũng chẳng nói lên được điều gì cả.



Những lúc nôn nóng sử dụng tài phép lạ lùng của mình, Charlie thường quên khuấy rằng những người mà nó thăm đấy cũng có thể trông thấy nó. Cho dù họ đang ở nơi nào, khi Charlie nhìn vào tấm hình chụp họ, họ cũng có thể thấy gương mặt nó trôi lềnh bềnh ở đâu đó gần đấy. Chính vì vậy mà Benjamin, đang uống nước ở Hồng Kông, đã nhìn thấy gương mặt mỉm cười của Charlie trong ly nước cam của mình.



Benjamin đón nhận những cú xuất hiện ma thuật của Charlie một cách dễ dàng, nhưng Hạt Đậu, con chó của Benjamin, xem ra không bao giờ có thể quen được với những cú xuất hiện ấy.



Con chó bự đang tính xơi bữa sáng trong quán Cà Phê Thú Kiểng, thì khuôn mặt Charlie bỗng ngó lên từ tô Chappimix.



Hạt Đậu hoảng hốt nhảy vọt lên, tru dài một tiếng; vụ việc khiến một con rắn xanh da trời trườn vội xuống dưới tủ đựng chén dĩa, và một phụ nữ rất cao tên là Onoria Onimous đánh rớt mẻ bánh mới nướng. Nhưng ba con mèo rực rỡ nằm trên nóc tủ lạnh thì chỉ ngáp và nhắm mắt lại.



Charlie đút tấm hình vào túi quần, nhét chiếc áo chùng xanh da trời vào giỏ, rồi chạy xuống lầu.



“Đừng quên...” ngoại Maisie la lớn, nhưng Charlie đã nhào ra khỏi cửa trước và chạy tới đầu đường Filbert.



Chiếc xe buýt đưa đón học sinh màu xanh da trời sắp khởi hành thì cửa xe thình lình bật mở, và một cậu bé có chỏm tóc quăn màu hạt dẻ thò đầu ra ngoài. “Anh thấy em chạy tới,” cậu bé nói. “Bác tài nói không thể đợi được nhưng anh bắt bác ấy phải đợi.”



“Cảm ơn anh Fido,” Charlie đưa một trong mấy cái túi xách của nó cho anh bạn Fidelio, và leo lên những bậc xe buýt.



“Có mang áo chùng không?” Fidelio hỏi.



Charlie lôi tấm áo nhàu nhì ra khỏi giỏ.



“Em ghét mặc áo lúc đi bộ ngoài đường Filbert lắm. Bị mọi người cười. Có một thằng ở nhà số 20 cứ gào lên: ‘Nó kìa, Thằng Xanh Da Trời kìa, tới Học viện Bloor, giống con két mào bảnh chọe!’ Nhưng em đâu có xin ai cho đến Học viện Bloor, đúng không?”



“Em không phải là con két mào bảnh chọe,” Fidelio bật cười. “Anh cá là sáng nay em lại quên chải đầu.”



“Em chải rồi.”



Xe buýt dừng lại và hai đứa nhập vào đám đông đang nhảy xuống quảng trường rải sỏi. Chúng đi ngang một vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá và tiến đến những bậc cấp dẫn vào Học viện Bloor.



Khi Charlie bước chân dưới bóng râm của tháp nhạc, nó thấy mình chợt ngước lên nhìn đỉnh chóp dốc đứng của tòa tháp. Điều này vốn đã trở thành thói quen và nó tuyệt nhiên không biết tại sao mình lại làm vậy. Có lần, mẹ nó bảo với nó, là cô cảm thấy ai đó đang nhìn mình từ ô cửa sổ nhỏ dưới mái hiên nhô ra... Charlie bất giác rùng mình và theo Fidelio băng qua cổng vòm rộng.



Chìm giữa đám con nít áo chùng xanh da trời, tím và xanh lá cây, Charlie nhóng tìm Emma Tolly và Olivia Vertigo. Nó trông thấy Emma mặc áo chùng xanh lá cây, mái tóc dài vàng óng thắt thành hai bím gọn gàng, nhưng nó thoáng ngỡ ngàng về đứa con gái đi cạnh Emma. Nó rành gương mặt ấy nhưng... phải đó là Olivia không? Cô nàng mặc áo chùng tím, như mọi đứa khác của khoa Kịch, nhưng mặt Olivia thường ngày vốn hay tô vẽ, và tóc tai luôn luôn nhuộm màu sặc sỡ. Còn cô bé này lại có vẻ ngoài láng lẩy: má hồng, mắt xám và tóc nâu cắt ngắn.



“Đừng nhìn chằm chằm vậy chớ, Charlie,” con bé tóc nâu vừa nói vừa bước đến chỗ Charlie.



“Olivia hả?” Charlie thốt lên. “Chuyện gì vậy?”



“Tớ sắp thử vai cho một bộ phim,” Olivia nói với nó. “Trông phải nhỏ hơn tớ.”



Chúng leo lên một dãy bậc thang đá nữa, và rồi bước qua cánh cửa đôi khổng lồ chạm trổ những hình thù bằng đồng. Ngay khi tất cả bọn trẻ đã vào trong trót lọt, thì Weedon, gã gác cổng và lo việc lặt vặt, liền đóng ập cổng và khóa lại. Cổng sẽ khóa chặt như vậy cho đến tận chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ được phép về nhà nghỉ cuối tuần.



Charlie bước vô tiền sảnh rộng mênh mông, lát đá phiến của Học viện Bloor. “Phim gì vậy?” Nó hỏi Olivia.



“Sssh!” Có tiếng suỵt đâu đó bên tai Charlie.



Charlie ngước lên, thấy một đôi mắt đen như than đá và giật bắn cả người. Nó tưởng Manfred Bloor đã ra trường rồi chứ.



“Anh hy vọng mày chưa quên luật, Charlie Bone!” Manfred gừ.



“Kh... không, anh Manfred,” Charlie coi bộ không quả quyết lắm.



“Vậy thì...” Manfred bật ngón tay một cái tách và ngó Charlie trừng trừng, còn Charlie thì đang ngó xuống bàn chân mình. Mới sáng sớm thế này, nó không hề muốn phải chống trả lại tia thôi miên của Manfred chút nào.



“Coi, luật như thế nào hả?” Manfred tra hỏi.



“Ờm...



Im lặng trong hành lang



Không được nói lan man



Không được khóc hay la



Ngay cả khi bị ngã.



“Ờm...” Charlie không thể nhớ ra câu cuối cùng.



“Viết câu đó ra một trăm lần và mang đến văn phòng của anh sau giờ uống trà!” Manfred nhe răng cười nham hiểm.



Charlie không biết là Manfred có văn phòng riêng, nhưng nó không định kéo dài cuộc đối đáp.



“Thưa vâng, anh Manfred,” nó làu bàu.



“Mày phải tự biết xấu hổ về bản thân mày. Bây giờ mày lên năm thứ hai rồi. Chẳng nêu gương tốt cho học sinh năm nhất gì cả, đúng không, Charlie Bone?”



“Dạ,” Charlie bất chợt nhìn thấy Olivia, đang tròn mắt dòm nó, và nó cố nén để đừng phì cười. Hên là Manfred vừa phát hiện ra có đứa nào đó không mặc áo chùng và đã tất tưởi vọt đi.



Olivia đã biến mất vào biển áo chùng tím. Đám chủ nhân của những chiếc áo đó đang chen lấn nhau đi qua cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ bằng đồng. Bên trong cánh cửa đang mở ấy, Charlie loáng thấy một đám nhốn nháo đủ màu, đang đông dần lên trong phòng để áo chùng tím. Nó vội vã đi tiếp đến tấm biển có hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau.



Fidelio đang chờ nó ngay cửa, bên trong phòng để áo khoác xanh da trời. “Chu cha! Thiệt động trời!” Fidelio thở hì hụi. “Anh tưởng Manfred rời trường rồi chứ.”



“Em cũng tưởng thế,” Charlie nói. “Được vậy thì quay lại Học viện Bloor là ngon rồi. Tưởng đâu ít ra cũng thoát được Manfred ở đây chớ.”



Vậy vai trò mới của Manfred là gì? Liệu hắn có vĩnh viễn bám đuôi, theo dõi, nghe ngóng và thôi miên bọn nhóc không?



Hai đứa bàn tán về vấn đề Manfred trên đường đến Hội trường. Vào ngày đầu tiên của mỗi năm học, buổi tập trung đầu năm được tổ chức trong nhà hát, không gian duy nhất đủ rộng cho toàn thể ba trăm học sinh. Mãi đến giữa học kỳ mùa thu vừa qua, Charlie mới nhập học ở Học viện Bloor; cho nên đây là một trải nghiệm mới mẻ đối với nó.



“Thôi chết! Anh phải lẹ lên mới được,” Fidelio nói, nhìn đồng hồ đeo tay. “Đáng lẽ giờ này anh phải chơi nhạc rồi.”



Giáo sư Saltweather, trưởng khoa Nhạc, gật đầu một cách nghiêm khắc với Fidelio khi nó leo lên sân khấu và ngồi vào chỗ trong dàn nhạc giao hưởng. Charlie chui vào cuối hàng ghế thứ hai và nhận ra mình đang đứng ngay sau lưng Billy Raven. Thằng nhóc bạch tạng quay lại với cái nhăn mày lo lắng.



“Em phải ở lại năm thứ nhất thêm mười hai tháng nữa,” nó thì thầm với Charlie, “Nhưng em đã phải ở lại hai lần rồi.”



“Xui vậy! Nhưng em mới có tám tuổi mà.”



Charlie quét một lượt hàng học trò mới trước mặt. Tất cả bọn chúng trông đều khá bình thường, nhưng ai mà biết chắc được. Một số trong bọn chúng có thể cũng được ban phép thuật giống như nó và Billy – những hậu duệ của Vua Đỏ.



Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, Charlie loay hoay đi khắp tòa nhà rộng lớn đầy gió lùa để kiếm phòng học mới của nó, lấy sách vở và tìm thầy Paltry (người được phân công dạy kèn trumpet cho nó.)



Đến khi tiếng tù và đi săn rúc lên báo hiệu giờ ăn trưa thì Charlie đã hoàn toàn kiệt sức. Nó khật khừ đi xuống khu căn-tin, cố lái mắt khỏi những bức chân dung treo trong hành lang sáng lờ mờ – đề phòng một người trong số họ muốn nói chuyện – và đến căn-tin xanh da trời.
“Đi ăn tối cái đã,” Fidelio nói. “Đồ ăn giúp ích cho bộ não.”



“Hừm!”Charlie ậm ừ



Ba đứa đi xuống sảnh anh lớn dài hun hút như hang động và ngồi vào chỗ của chúng ở cuối bàn khoa Nhạc.



Đám giáo viên ngồi bên một cái bànkê trên bục cao ở cuối sảnh đường, và Charlie chú ý thấy Manfred đang ngồi kế bên cha hắn. Vậy là, bây giờ hắn đã chính thức là thành viên trong giáo ban. Ít nhất thì hắn sẽ không làm bài tập chung với tụi nó nữa, Charlie nghĩ thầm.



Bữa tối gần xong thì giáo sư Bloor đứng dậy và vỗ vô tay. Cả căn phòng im ngay tắp lự. Người đàn ông vạm vỡ bước ra phía trước bục và dò xét những hàng trẻ con ở phía dưới. Dáng ông ta oai vệ trong chiếc áo chùng đen, vai rộng, tóc xám tỉa tót gọn gàng và ria mép thẳng như một cây thước. mắt ông ta gần như khuất hẳn dưới đụn mí thịt dày, và thiệt khó mà nói chúng màu gì. Bây giờ trông chúng là màu đen, nhưng Charlie biết chúng màu xam.



Phải một lúc sau vị hiệu trưởng mới mở lời. Lũ trẻ ngóng nhìn ông ta, chờ đợi. Cuốii cùng ông ta nói:



“Có vài lời với những trò được ban phép thuật mới vô. Các trò biết mình là ai rồi, vì thế tôi sẽ không nêu tên các trò ra nữa. các trò sẽ làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua. Sẽ có người chỉ đường cho các trò.Các trò hiểu rồi chứ?”



Charlie Bone nghe có ba giọng nói nhẹ hều cất lên:



“Dạ, hiểu ạ.” Nó không thể thấy những giọng nói ấy phát ra từ đâu, nhưng chúng chắc chắn không thuộc về bất cứ ai đang ngồi bên bàn khoa Nhạc.



Giáo sư Bloor thình lình hét vang, “GIẢI TÁN!”



Bọn trẻ rầm rập hành động một cách chính xác tuyệt đối. Ghế ngồi cạ rít trên sàn đá, dĩa được thu dọn và xếp thành chồng, ly uống nước va lách cách, dao nĩa xô vào nhau xủng xẻng, và rồi tất cả cùng đổ dồn ra cửa. Khi Charlie leo hết tầng đầu tiên, nó có thêm Gabriel và Billy nhập bọn; Emma Tolly đi đằng trước, còn Tancred và Lysander đang bay vọt ngang một dãy cầu thang khác, lên lầu hai.



Emma chờ cho Charlie bắt kịp, nó nói:



“Mình tìm thấy đám này dưới sàn nhà phòng để áo khoác của khoa mình,” con bé vừa nói vừa chìa ra ba tờ giấy nhàu nhì. “Mình nghe nói mấy bồ đang đi tìm.”



“Giấy chép phạt của mình,” Charlie kêu lên, chụp lấy xấp giấy. “Cám ơn bồ, Emma. Nhưng làm sao chúng lại lọt vô phòng để áo khoác khoa Hội họa được?”



“Chịu, không biết,” Emma nói.



Charlie dúi mấy tờ giấy vô vặp sách của nó. Có tiếng bước chân nặng nề sau lưng khiến nó quay lại nhìn và thấy Dorcas Loom đang chầm chậm bước lặc lè lên cầu thang. Đó là một đứa con gái phục phịch, tóc xoăn màu vàng nhạt và làn da khỏe mạnh. Dorcas là kẻ ái mộ cuồng nhiệt bà cô của Charlie, bà Venetia – bà này với tài phép của mình có thể may nên những bộ quần áo có ma thuật chết nười.



“Ngó cái gì mà ngó?” Con bé sưng sỉa.



“Con mèo cũng có thể nhìn nữ hoàng kia mà,” Charlie đáp.



Dorcas “Hứ” một tiếng kinh tởm, và tiếp tục ì ạch lên cầu thanh.



Charlie và lũ bạn nó bước vô phòng Nhà Vua – căn phòng hình tròn, lạ lùng với chiếc bàn tròn và những bức tường cong, sách xếp thành hang.



Manfred đang đúứng ở cạnh bàn đằng kia, dòm thẳng ra cửa. Tim Charlie lộn nhào, và rồi nỗi thất vọng dội khắp người nó như một cơn sóng bệnh hoạn khi nó trông thấy một dáng người gập cong đang ngồi cạnh Manfred. Đó là Asa Pike, kẻ nô lệ trung thành của Manfred – thằng bé có thể biến thành thú khi trời tối. Thằng đó phải ra trường rồi mới đúng, sao nó vẫn còn ở đây? Ngoài ra còn có ba đứa học trò mới ở trong phòng. Joshua Tilpin là một trong số đó.



“Lẹ lên! Lẹ lên,” Manfred sốt ruột ra lệnh. “Đừng có đứng chùm nhum ở cửa thế. Tôi có một thông báo quan trọng đây.”



Charlie rụt người lại và bước vòng quanh bàn đến một chỗ bên cạnh Tancred. Từ chỗ này nó có thể nhìn thấy bức chân dung Vua Đỏ. Một bức tranh cổ vẽ một hình người mờ ảo mặc áo chùng đỏ và đội vương miện vàng thanh mảnh. Gabriel, Billy và Emma theo sau Charlie trong khi Dorcas lăn vô phòng và dùng chân đóng cửa lại.



“Hãy tỏ ra chút tôn trọng nhà của ba tôi chớ!” Manfred mắng.



Dorcas trừng mắt, nhưung không dám nhìn thẳng vào mắt Manfred.



“Có người ngồi chỗ của em rồi,” nó càu nhàu.



“Đừng có ngớ ngẩn, Dorc,” Manfred nói.



“Dorc. Hay lắm,” Asa cười khụt khịt.



Manfred lờ nó đi. “Ngồi đâu cũng được, trò kia, lẹ lẹ lên.”



Nếu Dorcas muốn ngồi một bên Manfred thì quả là nó không còn cơ hội. Chèn vô giữa Manfred và Joshua Tilpin là hai con bé trông rất quái đản. Cả hai đều có tóc đen láng, cắt cụt ngay dưới tai, với một mớ tóc dày rủ trước trán; nước da nhợt nhạt và mướt trông như đồ sứ.



Hai chị em sinh đôi, rõ ràng, Charlie nghĩ thầm. Nếu chúngb là người thật. Bởi vì gương mặt chúngngây đờ, và cơ thể bất động, đến nỗi rất có thể chúng là búp bê.



Dorcas lết bết đi quanh bàn, và đặt sách vở của nó cạnh sách vở của Joshua. Thằng này đãi con bé một nụ cừơi rạng rỡ, phô hàm răng khập khiễng, và thực tình thì Dorcas cũng cười đáp lễ.



“Giờ mọi người có mặt ở đây cả rồi,” Manfred nói, liếc xéo Dorcas, “Tôi muốn giải thích một vài điều. Trước tiên, chắc hẳn các trò không ngờ lại gặp lại tôi. Ừm, các trò sẽ luôn gắn liền với tôi.”



Không đứa nào hó hé một tiếng, trừ Asa khịt mũi.



“Bây giờ tôi là thầy trợ giảng,” Manfred tiếp, vẻ trịnh trọng. “Công việc cụ thể của tôi là giám sat bài tập về nhà của các trò, kiểm soát sự phát triển của các trò, gác thi, và giúp đỡ trong bất cứ vấn đề nào liên quan đến cá nhân hay công việc.”



Hắn dừng lại để lấy hơi và Charlie tự hỏi cái người quỷ quái nào trên đời này mà lại muốn nhờ cựu huynh trưởng giúp đỡ không biết.



“Giờ là phần giới thiệu,” Manfred gọi tên tất cả nhữung đứa ngồi quanh bàn cho đến khi tới lượt hai đứa côn gái bí hiểm ngồi cạnh hắn.



“Và đây là hai chị em sinh đôi, Inez và Idith Branko.”



Ngay khi nghe tên mình được xướng lên, cặp sinh đôi cúi đầu và nhìn chằm chằm vào dống sách trước mặt chúng. Với tốc độ kinh hoàng, đám sách bay xẹt qua bàn. Một chồng đáp oạch xuống đùi Charlie, và chồng kia hạ xuống đùi Tancred.



“Ối, không!” Tancred gầm gừ. “Siêu năng di chuyển đồ vật.”



Hai ống tay áo chùng của nó đột nhiên phồng lên, mái tóc vàng kêu lắc rắc và một làn gió thổi tung những xấp giấy nằm hớ hênh trên bàn.



“Tôi thấy mấy kì nghỉ hè rồi vẫn chưa cải thiện được khả năng tự chủ của trò, Tancred à,” Manfred nói bằng giọng móc mỉa.



Tancred và Charlie đứng dậy và đẩy mấy chồng sách của cặp sinh đôi trở về bên kia bàn. Hai con bé tịnh không nói một lời nào, và mặt chúng vẫn hoàn toàn lạnh băng.



Charlie không cưỡng nổi, nhận xét:



“Lịch sự thì phải cảm ơn chớ.”



Idith và Inez vẫn im lặng, nhưng một trong hai đứa, chả biết là đứa nào, bắn cho nó một cai nhìn cực gớm ghiếc.



“Hãy cố mà dế chịu với các nữ sinh mới, Bone.” Manfred nói. “Chị em sinh đôi có họ hàng với Zelda Dobinsky, người đã rời chúng ta. Rõ ràng cô ta là một thiên tài toán học, cho nên cô ta đã đi học đại học ở tuổi còn rất nhỏ. Rủi thay, Asa đây là sự trái ngược với thiên tài. Anh ta vẫn còn học với chúng ta vì thi rớt tất cả các kì thi.”



Cáu tiết vì xấu hổ, Asa càng sụ xuống hơn trong ghế ngồi của nó, và Charlie đột nhiên có một cảm giác hiếm thấy là thông cảm cho nó. Bị người mình ngưỡng mộ chế giễu chắc hẳn là rất đau đớn.



“Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trong, chúng ta có Joshua Tilpin,” Manfred loan báo.



Nghe thấy tên mình, Joshua bật dậy và cúi chào. Ai đó có thể nghĩ nó là một hoàng tử. Tuy nhiên nó trông thật lôi thôi. Áo chùng xanh lá cây bết đầy bụi, lá cây và cỏ lẫn với tóc, và một mẩu mạng nhện lòng thòng ở một bên tai.



“Ngồi xuống, Joshua,” Manfred nói. “Trò không phải là ngôi sao nhạc pop.’



Joshua cười tươi rói với hắn và, trước sự khinh ngạc của mọi người, Manfred cười lại. Nhận được nụ cười từ Manfred tựa như lấy được mứt từ một hòn đá vậy.



Gì tiếp đây? Charlie nghĩ. Nó toan bắt đầu làm bài tập về nhà thì Manfred nói:



“Charlie Bone, trò chưa nộp bài chép phạt cho tôi.”



“Ồ, xin lỗi, thưa thầy Manfred. Em có đem theo đây,” Charlie lục lạo túi xách.



“Tôi yêu cầu trò dem đến văn phòng của tôi mà.”



“Nhưng... Em không biết văn phòng ở đâu,” Charlie thú nhận.



Manfred thở dài. Hắn nhìn lên trần nhà và dõng dạc.



“Tôi ở đằng sau từ ngữ



Trên đường đến âm nhạc



Dưới một chái nhà



Và trước kèn trumpet, mặt nạ và cọ vẽ.”



Hắn dừng lại để tạo hiệu quả và lái tia nhìn trở lại Charlie.



“Tôi diễn đạt rõ rồi chứ?”



Trong bất kì tình huống nào khác, Charlie chắc hẳn sẽ nói, “Rõ như nước ao tù,” nhưng vì tình cảnh này đã căng thẳng rồi, nên nó quyết định nói:



“Thưa vâng, thầy Manfred.”



“Tốt. Vây thì đem bài phạt của trò đến văn phòng của tôi trước giờ ngủ, nếu không thì trò sẽ bị cấm túc.”