Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương
Chương 11 :
Ngày đăng: 15:22 19/04/20
NHỮNG ĐỨA CON CỦA HOÀNG HẬU
Charlie mở mắt ra. Tancred và Billy đang nhìn nó lo lắng.
“Charlie, anh nghĩ là em đã bị ngất.” Tancred nói.
“Thật à?” Charlie loạng choạng đứng dậy.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Billy nhíu mày một cách sợ hãi.
“Con ngựa,” Charlie nói, “ nó đã ở ngay đây, ngay sát mặt anh. Thật kinh khủng quá!”
“Nhưng em có bị sứt mẻ gì đâu,” Tancred cười nói, “Có lẽ em bị ám ảnh mất rồi, lại còn la hét lên như thế.”
Charlie không nhớ là mình đã hét lên. Rừng cây vẫn xào xạc xung quanh nó và tiếng sấm xa xa vẫn ì ầm vọng lại.
“Có một con bướm trên tóc anh kìa,” Billy nói. Nó nhìn chăm chú vào cái đầu tóc rối bù của Charlie, “Nó có một đôi cánh bạc.”
“Thật à?” Charlie đưa tay lên nhưng con bướm đã vỗ cánh bay vào bóng đêm.
“Thôi nào, chúng ta đi tiếp thôi” Tancred sốt ruột nói, “Chúng ta phải đi tiếp vào khu rừng để đề phòng trường hợp bà ta muốn tìm ra Bill.”
“Hoặc là gia đình Bloor?” Billy thêm vào, “Em có thể ở nhà anh lâu thật lâu không, anh Tancred?”
“bao lâu tùy thích, mẹ anh luôn chào đón em.” Tancred nói, “Thôi, nhanh lên nào. Mười phút nữa và chúng ta sẽ ở đó.”
Chúng bắt đầu đi sâu vào trong khu rừng, theo một lối mòn người ta dùng để lùa cừu đi gặm cỏ bên sườn đồi.
Tancred dẫn đầu còn Charlie thì đi tụt lại phía đằng sau. Charlie bắt đầu tự hỏi liệu Billy có thể đi đâu tiếp đây. Câu hỏi ấy cứ lơ lửng trong không khí cho tới khi một giải pháp bất ngờ bật ra, “Luôn luôn có một lâu đài bằng gương!”
“Cái gì?” Billy dừng lại.
“Em thuộc về nơi đó, Billy đó là lâu đài của chính em.”
“bà bếp nói lâu đài đó thuộc về gia đình em,” Billy nói chậm rãi, “anh có nghĩ là em có thể sống ở đó cho tới khi em lớn lên không?”
“Tại sao không? Có lẽ em sẽ sống ở đó một cách an toàn cho đến cuối đời.”
“Đi tiếp đi, hai đứa.” Tancred gào lên.
Charlie và Billy vội chạy lên để bắt kịp Tancred. Khi chúng kéo đến gần ngôi nhà sấm thì gió đang thốc lên và sấm nổ đì đùng trên bầu trời.
“ba đang vui đấy,” Tancred nói.
Nụ cười chợt đông cứng lại trên môi của Charlie. Một cái gì đó khổng lồ và vô hình phóng vút qua nó. Nó có thể cảm nhận được trọng lượng và sức mạnh kinh khủng của vật đó khi nó nện chân xuống mặt đất. Hai đứa kia cũng đã cảm nhận được. Chúng vội túm lại với nhau khi con ngựa ma bắt đầu chạy vòng vòng xung quanh tụi nó, hí vang và thở phì phò khi càng ngày càng khép chặt vòng tròn lại.
Lá cây rụng ào ào như mưa khi con vật đó chồm lên. Chúng có thể cảm nhận được những chân trước của con ngựa đang đá vào không khí. Và Charlie nghĩ, bất cứ lúc nào, một trong những cái móng ngựa đó sẽ bổ vào đầu nó và thế là tiêu đời thằng Charlie Bone!
Và rồi Billy Raven lại làm một điều gì đó hoàn toàn không lường trước được. Nó bước ra khỏi đường mòn và đi thẳng về phía con ngựa, vừa đi vừa khụt khịt nho nhỏ.
“Nó điên rồi,” Tancred chộp lấy vai Charlie.
“Suỵt!” Charlie thì thầm. Billy có thể nói chuyện được với thú, nhưng làm sao nó có thể nói chuyện với một thứ quái vật có trái tim của Borlath như con Hamaran này?
Một lần nữa, tiếng sấm lặng đi và cây cối cũng im theo. Một tiếng hí dài vang lên rồi rơi vào im lặng. Trong sự im lặng đó, Billy quì xuống và cúi đầu.
“Cái gì…?” tiếng Tancred vỡ ra trong hoảng loạn.
“Suỵt!” Charlie kéo áo Tancred.
Con bướm trắng lại xuất hiện, và đang vỗ cánh ngay bên trên Billy. Đôi cánh lấp lánh bạc của nó vỗ nhanh đến mức có vẻ như nó đang vẽ một hình dạng vào trong không khí. Cái hình dạng đó rõ nét dần và một thứ gì đó khổng lồ bắt đầu hiện ra ngay bên dưới đám mây bạc ấy. Và rồi nó xuất hiện: một con ngựa trắng với cái đầu trông rất phi thường với cái bờm dài đang chảy rũ xuống.
Charlie há hốc miệng và quay trở lại kéo Tancred lại gần nó.
“Trông nó không có gì xấu cả.” Tancred thì thầm vào tai Charlie.
“Đúng thế!” Billy nói.
“Làm sao em biết,” Tancred thắc mắc, “ nó nói với em à?”
“Vâng,” Billy nhìn đám con trai và mỉm cười, “Thật ra, nó … bà ấy là hoàng hậu!”
“Hoàng hậu?” cả Charlie và Tancred cùng kêu lên.
“Hoàng hậu Berenice.” Billy nói với chúng, “ bà ấy là vợ của vua Đỏ.”
“ý em là…” đầu óc Charlie rối loạn. Nó gắng nhớ lại những gì Manfred đã nói với nó về thí nghiệm: một tấm bia mộ được đánh dấu bằng chữ: “B”, xương của con ngựa được chôn bên dưới và một trái tim đựng trong cái hộp.
“Không phải là Borlath,” Charlie lầm bầm, “Mà là Berenice.” Một nụ cười kéo dãn khuôn mặt nó ra và nó tiến lại gần Billy. “ lão già ấy lại phạm sai lầm nữa rồi.”
Tancred, thận trọng theo sau và hỏi: “ Làm sao bà ấy đến được đây?”
“Lão Ezekiel đã hồi sinh bà ấy. Đó không phải là trái tim của Borlath mà là của hoàng hậu. Hoàng hậu Berenice.”
Bây giờ chúng đang đứng sát ngay sau lưng Billy, lúc này đang chậm rãi đứng lên.
“bà ấy đã đi theo chúng ta,” Billy nói, “ bà ấy bảo chúng ta là con cháu của bà và bà muốn bảo vệ chúng ta. Ai đó đã mang bà ấy đến đây từ một thế giới khác. Nhưng linh hồn của bà ấy yếu dần đi và nó sẽ mang bà ấy trở lại cho tới khi cây đũa phép của anh khiến bà ấy mạnh lên.”
“Đũa phép của anh?” Charlie vẫn cảm thấy mịt mù, “ anh tưởng là Manfred đã phá hủy nó trừ phi…” nó nhìn con bướm trắng, đôi cánh của nó giống như một tia sáng lập lòe nhỏ xíu ở giữa hai tai của con ngựa.
“Họ nói cái đũa phép có thể có một hình dạng khác nếu nó phải như thế.” Tancred nói.
“Ồ!” Charlie chớp mắt. Tancred biết nhiều hơn là nó tưởng.
Con ngựa trắng bắt đầu kêu lên, lần này nhẹ hơn và tuôn ra một tràng âm thanh giống như tiếng người. Billy lắng nghe một cách chăm chú và khi con ngựa ngừng lại, nó bảo hai đứa kia, “bà ấy nghe chúng ta nói về lâu đài bằng gương và điều đó khiến bà ấy khiếp sợ. Bà ấy đã thấy hòn đảo nơi nó được xây dựng và chuyện gì đã xảy ra ở đó.”
“Vậy thì bà ấy biết nó ở đâu.” Charlie thốt lên.
“Em cũng cho là vậy,” Billy nói. Rõ ràng là nó không biết gì về lịch sử khủng khiếp của tòa lâu đài.
“Charlie, hãy nói với anh là em sẽ không định làm cái chuyện mà anh nghĩ là em sắp sửa làm đi,” giọng Tancred nài nỉ.
Charlie nhe răng cười: “ đó chỉ là suy nghĩ.” Nhưng suy nghĩ ấy đang lớn dần lên.
Ba đứa trẻ đứng đó trong im lặng và ngắm nhìn con ngựa oai vệ gặm cỏ. Thật là khó mà tưởng tượng rằng nó đã từng là hoàng hậu của gần một ngàn năm về trước. Lão Ezekiel đã nhầm lẫn, nhưng những gì mà ông ta đã làm quả thật là một phép lạ. Ông ta vẫn là một pháp sư đầy quyền lực và chẳng bao lâu ông ta sẽ có thể tìm ra Billy và đưa nó trở về nhà Bloor. Trừ phi… Cái suy nghĩ trong đầu Charlie lớn dần thành một kế hoạch. Và kế hoạch đó theo một cách nào đó có thể là giải pháp duy nhất. Charlie biết rằng từ sâu trong trái tim nó việc cứu cha là chuyện nó luôn đặt lên hàng đầu nhưng sự an toàn của Billy là chuyện cấp bách tiếp theo mà nó phải làm.
“Hãy hỏi bà ấy rằng liệu bà ấy có thể đưa chúng ta đến hòn đảo ấy không?” Charlie nói với Billy.
“Charlie!” Tancred phản đối, “ em không thể!”
“Em nghĩ là chúng ta phải làm vậy thôi.” Charlie nói.
Billy rất hăm hở để thử. Nó quì gối xuống và bắt đầu nói chuyện với con ngựa. Con ngựa ngẩng cao đầu, tai nó dựng lên và mắt nó trợn tròn sợ hãi.
“bà ấy không thích ý tưởng này,” Billy thì thầm.
“Hãy nói với bà ấy về cha anh,” Charlie thúc giục, “Nói với bà ấy em cần một nơi an toàn.”
Billy lại bắt đầu, lần này nó thêm một tiếng hí dài não nùng vào ngôn ngữ của nó.
Đột nhiên con ngựa chồm lên. Với một tiếng kêu hãi hùng, nó lao về phía rừng cây. Chúng lắng nghe tiếng vó ngựa thình thịch xa dần cho đến khi mất hẳn, chỉ còn lại âm thanh của tiếng sấm và tiếng lá cây rì rào.
“Thế đấy!,” Tancred nói, “ hãy về nhà anh đi.”
“Không,” Charlie nói, “ bà ấy sẽ trở lại.”
“Em đùa hả, Charlie? Con ngựa ấy rất sợ hãi. Nó sẽ không bao giờ đưa em đến lâu đài bằng gương đâu.”
“bà ấy sẽ trở lại,” Charlie lặp lại, “bà ấy nghĩ chúng ta là con cháu của bà ấy và bà ấy sẽ bảo vệ chúng ta.”
Billy không thích tranh cãi với những cậu con trai như Tancred nhưng khi nó đưa mắt nhìn Tancred rồi lại nhìn Charlie, nó nói, giọng rụt rè:
“Em nghĩ là anh Charlie đúng.”
“Vậy thì hai đứa muốn làm gì thì làm,” Tancred nói, “Còn anh thì sẽ không đi đâu.” “Lát nữa anh sẽ mang cho hai đứa một ít thức ăn nếu hai đứa vẫn còn ở đây và anh ngờ là hai đứa sẽ ở đây.” Tancred nói với theo khi nó sải những bước dài về phía căn nhà.
“anh có nghĩ là anh Tancred đúng không?” Billy hỏi Charlie.
“Không,” Charlie ngồi xuống và dựa lưng một cách thoải mái vào một thân cây lớn.
Có tiếng sấm nổ ầm ầm và trời đột nhiên mưa như trút. Billy co người lại bên cạnh Charlie.
“anh ấy đang giận.” Billy nói.
“rồi anh ấy sẽ hết giận thôi.” Charlie bảo nó.
Nhưng cơn bão càng trở nên tệ hơn. Gió vặn mình qua các ngọn cây, mang theo những chiếc lá chết và cành khô rơi xao xác xuống mặt đất. Những thân cây tầm ma bật rễ, cây bụi và cỏ khô rít lên quanh Charlie và Billy khi chúng vội vã chạy núp dưới một cây sồi lớn, vừa chạy vừa vòng tay che lấy thân người. Sau nhiều tiếng đồng hồ đập phá, cơn bão có vẻ như dịu lại và hai đứa trẻ ngủ thiếp đi, mệt mỏi vì một buổi sáng bất thường như thế.
Charlie tỉnh giấc và thấy Tancred đang sải bước lại về phía mình trên tay bưng một cái khay lớn, “anh biết là hai đứa sẽ vẫn còn ở đây mà.” Tancred nói rồi đặt cái khay xuống. Charlie thấy có món gà quay, rau cải và nước hầm, ba tô bánh nướng nhân mận và món sữa trứng. Bữa sáng của bà Silk thật thịnh soạn và hương thơm của bữa tiệc đó đủ để một đứa con trai đang đói bụng như Charlie phải reo lên vui mừng hay như Billy phấn khởi tới nỗi ngã vật xuống cỏ.
“Vẫn còn bão,” Charlie lẩm bẩm khi nó gặm cái chân gà.
‘xin lỗi, ba và anh đã cãi nhau,” Tancred trả lời, “ ba anh nói hai đứa em đáng lẽ phải đang ngồi ăn trên bàn chứ không phải co quắp trong rừng như dân tị nạn. Anh mới nói là anh sẽ không ăn với ông ấy nếu như ông ấy cứ như thế. Ông ấy gần như nổi khùng lên nhưng mẹ anh nói con trai thì vẫn là con trai. Và bà ấy nhắc là hai người họ cũng đã từng có những buổi tiệc trong rừng như thế khi họ còn trẻ. Điều đó khiến ba anh dịu lại.”
Khi tất cả những món ăn đã được dọn sạch, Tancred hỏi Charlie và Billy đã chịu theo nó về nhà chưa, “Rõ ràng là con ngựa đó không trở lại,” Tancred nói, “Có lẽ bà ấy đã quay trở về thế giới khác rồi,”
Charlie liếm những mẩu thức ăn ngon lành còn lại trên ngón tay của nó, đáp lại: “ không, bà ấy sẽ trở lại.”
“Trời ạ, em thật là cứng đầu đó Charlie.” Tancred giậm chân nói, nhưng lần này nó có vẻ cam chịu hơn là nổi giận, “anh phải làm gì với em bây giờ?”
“Hãy gọi cho ông cậu Palton của em,” Charlie bảo nó, “Cố gắng giải thích chuyện gì đang xảy ra. Mọi thứ. Và hãy nói là em đang qua đêm tại nhà anh phòng trường hợp mẹ em lo lắng.”
“Không sao.” Billy nói “Có một đường hầm và em đã nhìn thấy ánh sáng ở cuối con đường.”
Ch leo vào cái lỗ và trượt vào bóng tối. Thật là một điều phấn khích khi trượt trên bề mặt láng mướt và sáng lóa, nhưng hạ cánh xuống bằng mông thì cũng hơi ê ẩm.
“ối chà!” Charlie đứng dậy và đụng đầu vào trần nhà thấp. “Lại ối chà!” nó đang đứng trong một khoảng trống dưới đất nhỏ xíu vừa đủ chỗ cho hai người.
“Nhìn kìa!” Billy reo lên. “Một hành lang.”
Charlie quay qua và thấy một cái khe tối trong tảng đá. Nó cúi xuống và nhìn vào trong. Một con đường hẹp dẫn đến một tia sáng xa xa. “Đó không phải là hành lang, đó là một đường hầm.”
“Cũng vậy thôi.”
“Không giống. Chúng ta sẽ phải bò đi.”
“Vậy thì bò thôi.” Billy quỳ gối xuống và bắt đầu bò dọc theo đường hầm. Vẻ miễn cưỡng khi phải đến tòa lâu đài này đã biến mất. Bây giờ trông nó còn phấn khích hơn Charlie nữa.
Chúng đang đi được nửa đường hầm thì Charlie bắt đầu nghe thấy âm thanh của tiếng đàn piano. Tim nó đập nhanh hơn, tuy thế nó vẫn ngập ngừng khi treo ra khỏi đường hầm. Có lẽ nó e ngại những gì nó sẽ phải thấy. Khi đã ra khỏi bóng tối, nó nhận ra mình đang đứng ở một cái sân rộng lớn, được bao phủ bởi những viên đá đang tỏa sáng. Tiếng nhạc phát ra từ tòa tháp vuông ở chính giữa. Một dãy cầu thang hẹp dẫn đến vòm cửa trong tòa tháp; cả cánh cửa và những bậc thang đều được làm bằng những tấm kính màu đen thô cứng.
Những bậc cầu thang cứng như giấy nhám và rất dễ trèo. Billy đi trước và khi chúng lên đến đỉnh, nó gõ cửa một cách lịch sự.
Tiếng nhạc ngừng lại nhưng không ai xuất hiện. Charlie cẩn thận đẩy cửa vào. Hai đứa nó cùng bước vào căn phòng ấy.
Cái nhìn đầu tiên của Charlie đối với người đàn ông ở bên trong đưa lại một cảm nhận dễ vỡ, bởi vì căn phòng được xây bởi những tấm gương mờ hình chữ nhật và người chủ nhân đang đứng đàng sau Charlie. Rất chậm, Charlie quay lại. Nó thấy một người đàn ông tầm thước với mái tóc đen và đôi mắt to màu xanh lá cây. Ông có một chiếc mũi khoằm dài và một cái miệng rộng. Nước da tái như thể ông đã ở trong ngôi nhà này lâu lắm rồi. Có điều gì đó quen thuộc về người đàn ông này khiến cho Charlie khấp khởi hy vọng.
Người lạ cười thăm dò “Các cháu mang cho tôi cái gì?” ông hỏi.
“Không có gì ạ” Charlie bối rối “Ông đang mong chờ điều gì à?”
“Đôi khi họ gửi đồ ăn.” Người đàn ông ngồi xuống một cái ghế ọp ẹp và thở dài. “Một cậu con trai hay mang thức ăn đến từ đất liền.”
Biết rằng cha mình đã mất trí nhớ, Charlie hỏi, “Họ gọi ông là gì?”
“Tôi được gọi là Albert Tuccini nhưng mà tất nhiên đó không phải là tên thật của tôi.”
“Ông … ông biết tên thật của mình sao?”
Albert Tuccini lắc đầu. “Có lẽ là không.”
Ch bước lại gần người đàn ông. “Cháu nghĩ là cháu biết ông.”
Người đàn ông gật đầu. “rất nhiều người biết tôi. Tôi là một người chơi đàn piano nổi tiếng.”
“Vậy tại sao ông lại ở đây?” Billy hỏi.
“À,” Albert Tuccini đặt một ngón tay lên môi. “Tôi ở ngoài sẽ không an toàn. Tôi không thuộc về nơi đây, cháu thấy đầy. Tôi đã mất tổ quốc, gia đình và tên thật của tôi nữa.”
Charlie nghĩ nó nhận ra cách phát âm mang hơi hướng nước ngoài trong lời nói của Albert nhưng nó tự nhủ rằng điều này có thể được giải thích vì người đàn ông này không biết mình là ai. Nó tiến tới Albert Tuccini và chạm vào vai ông. “Cháu nghĩ tên thật của ông là Lyell Bone. Có lẽ cháu có thể giúp ông nhớ lại.”
“Cái gì?” một tia hy vọng lóe lên trong đôi mắt xanh buồn bã.
“Cháu nghĩ tên của ông là Lyell Bone”
“Lyell Bone,” người đàn ông lặp lại. “Một cái tên hay đấy chứ.”
“Và cháu là Charlie, con trai của ông,” Charlie nói trong hơi thở dồn dập.
Billy kéo lại cổ áo. “anh không biết điều đó có phải hay không.” Nó nói nhỏ.
“anh biết” Charlie nói. “Và anh chắc chắn điều đó.”
Người đàn ông trông hết sức bối rối. “Con trai?” ông nói một cách nghi ngờ. “Không thể nào.”
“Có thể chứ.” Charlie hét lên, hoàn toàn bị thuyết phục rằng đây thật sự là cha nó. “Và bây giờ con đã tìm thấy ba, mọi chuyện rồi sẽ ổn. Con sẽ đưa ba về nhà, ba sẽ gặp lại ông cậu Palton. Ba nhớ ông ấy chứ? Palton Yewbeam.”
“Palton?” người đàn ông lặp lại. “Tôi nhớ Yewbeam. Đó là bà cô Yewbeam đã mang tôi đến đây. Bà cô Eustacia Yewbeam. Đôi khi bà ấy cũng mang thức ăn cho tôi nữa.”
“Tất nhiên rồi!” Charlie quá phấn khởi tới nỗi nó khó mà có thể giữ yên lặng. “Có tới ba bà cô Yewbeam. Họ là những bà cô của con, và con biết là chính họ đã làm cho ba biến mất.”
Người đàn ông nói, “ừm, ừm.” rồi lắc đầu. “gọi tôi là Albert được không? Tôi đã quen với cái tên đó rồi.”
“Chỉ bây giờ thôi đấy.” Charlie đồng ý.
Billy đột nhiên lên tiếng, “Em không thể sống ở đây được! nhà Yewbeam sẽ đến đây.”
Charlie nhận ra hoàn cảnh của Billy tệ hơn bao giờ hết. “Chúng ta sẽ tìm một nơi khác,” nó bảo Billy “Ngay khi chúng ta có thể.”
Nhưng khi chúng đang nói chuyện, thời tiết bỗng nhiên thay đổi một cách đột ngột. Gió từ hướng bắc bắt đầu rít lên xung quanh lâu đài, những trận mưa đá đập lên những bức tường bằng gương. Một cuộc hành trình qua biển lúc này thật là nguy hiểm. Họ sẽ phải đợi cho tới khi cơn bão đi qua.
Albert đề nghị nấu cho bọn trẻ một bữa ăn. Nhấc cái nắp của một cái rương lớn làm bằng gỗ sồi, ông lấy ra vài cái hộp và trút vào một cái chảo. Một cái bếp nhỏ ở trong góc phòng và Albert bắt đầu nấu ăn. Sau đó Billy và Charlie được trao cho hai cái tô đậu rang và hai cái thìa.
“Tôi sẽ ăn bằng chảo,” người chủ nhà vui vẻ chọc cái thìa làm bằng gỗ vào phần đậu còn lại. “Thức ăn trong hộp có thể rất ngon mà, phải không?”
“Vâng” Charlie nói, tự hỏi là cha nó có phải toàn ăn đậu để sống không.
Hai đứa con trai ngồi trên một cái chiếu rơm bao phủ một phần nền nhà bằng gương thô cứng. Tuccini ngồi trên một cái ghế duy nhất. Trong khi ông dùng bữa, Charlie nhìn quanh căn phòng bằng gương. Nó được trang bị đồ đạc hết sức sơ sài. Sát tường là một tấm nệm với đống chăn trên đó. Một cái túi đã cũ nằm bên cạnh cái nệm, và Charlie cho là nó chứa toàn bộ gia tài của người chủ, bởi vì ngoài những thứ đó ra chẳng còn gì cả, trừ một vài cuốn sách, vài cái đĩa và thìa, một đống tạp chí trên cái bàn tròn. Bên dưới cái bàn là một cái tô lớn, một cái bình và một vài cái hũ nhỏ. Một cái máy hát đã được đặt trên nền nhà ngay bên trong cánh cửa.
Ở phía bên cánh cửa, một dãy cầu thang dẫn lên phía trên tòa tháp. Billy đã ngó chăm chăm những bậc thang này khi nó đang ăn; thật ra, nó không thể rời mắt khỏi chúng. “Chúng dẫn đi đâu vậy?” nó hỏi, nhìn về phía các bậc thang.
“Chúng dẫn đến bức tường lịch sử,” Albert nói, “Tôi đã đến đó nhưng không tìm hiểu được gì thêm. Đôi khi, tôi nghe tiếng người ta ca hát, cười nói những lời mà tôi không hiểu và những âm thanh mà tôi không muốn kể.”
“Hồn ma à?” Charlie hỏi.
“Có lẽ thể.” Albert nói, vẻ lảng tránh.
“Cháu muốn đến đó,” Billy nói.
Nhưng khi họ vừa ăn xong, những đôi mắt bắt đầu nhắm lại và chẳng mấy chốc chúng thiếp đi.
Khi Charlie thức dậy, căn phòng bằng gương đang phản chiếu lấp lánh ánh nến. Nó đang nằm trong chăn với Billy bên cạnh, vẫn còn đang ngủ.
“Cháu đã rất mệt, phải không,” Albert nói, nhìn xuống Charlie. “Chắc là cháu đã đi một quãng đường rất dài.”
“Vâng, rất dài.” Charlie nói. “Con sẽ kể cho ba nghe nếu ba muốn.”
“Tôi thích lắm. Thật là tốt khi được nghe tiếng người.” Albert đến ngồi bên mép chiếu.
Trước khi Charlie mô tả về chuyến hành trình của nó với hoàng hậu Berenice, nó cảm thấy nên kể sơ về những đứa con của vua Đỏ và học viện Bloor. Albert hơi quay đầu đi khi Charlie đề cập đến nhà Bloor, như thể cái tên ấy làm ông rúng động. Nhưng sau đó, ông chăm chú nghe Charlie kể chuyện và nhìn nó với một sự tập trung rất ân cần.
“Con nghĩ là nó hơi khó tin một chút,” Charlie nói khi nó kể đến chỗ con bướm trắng đã phát hiện ra cái thuyền.
“Chẳng có gì là khó tin với một người đã không thể nhớ về cuộc sống của chính mình,” Albert nói với một nu cười buồn bã. “Nhìn kìa, đó là con bướm trắng của cháu.”
Charlie nhìn thấy con bướm đang đậu gần mái tóc trắng của Billy.
“Nó ở đó khi các cháu đang ngủ,’ Albert nói với Charlie, “Như một người bảo vệ vậy.”
Billy thức dậy và tự động đi tìm cặp mắt kín. Nó gần như không thấy gì nếu không có kính và nó luôn cảm thấy mất bình tĩnh nếu cặp kính chưa được đặt chắc chắn lên mũi nó.
“Em nghĩ là em đang mơ,” Billy ngồi dậy “Nhưng tất cả đều là sự thật phải không?”
“Đúng thế. Chúng ta đang ở lâu đài gương,” Charlie nói.
Billy lập tức tìm kiếm cầu thang cạnh cửa. “Và em đã đi lên đó phải không? Thật sự em có cảm giác là em phải đi tới đó.” Nó ném cái chăn qua một bên và đứng dậy, vẫn nhìn chằm chằm vào cái cầu thang. Chúng hút lấy nó như một thỏi nam châm.
“anh sẽ đi với em,” Charlie nói.
Albert trao cho Billy một cây nến vốn được cắm rất nhiều trên những cái hộp rỗng quanh phòng. “Cháu sẽ cần cái này đấy,” ông bảo. “Trên đó tối lắm.”
“Tổ tiên của cháu sống ở đây.” Billy nói một cách tự hào, “Và anh Charlie nghĩ là cháu có thể tìm thấy họ. Ngày hôm qua cháu đã rất sợ hãi nhưng bây giờ thì không như vậy nữa đâu.” Nói rồi, nó dậm bước lên cầu thang và bắt đầu leo lên. Charlie chậm rãi bước theo sau.
Những bậc thang được sắp xếp gập ghềnh và thô nhám dưới chân. Charlie thấy chúng rất khó trèo. Cầu thang xoắn lên phía trên và càng ngày càng trở nên dốc hơn và hẹp hơn. Billy đã đi khỏi tầm mắt nhưng Charlie có thể nghe tiếng bước chân của nó đang gấp gáp tiến lên trên tòa tháp. Ánh sáng của cây đèn cầy trở nên yếu ớt khi Billy dẫn đầu. Chẳng mấy chốc, Charlie chỉ có thể nghe tiếng bước chân của Billy dẫn đường cho nó. “Billy anh không thấy gì hết!”. nó hét lên.
Billy đã đi đến bức tường lịch sử. Nó không nghe tiếng Charlie hét bên dưới, và Charlie phải dò dẫm tìm đường lên các bậc thang và vào căn phòng kì lạ phía trên cùng. Ở đây, những ô cửa kính tạo nên bức tường đang phản chiếu cái đầu tóc trắng và cặp kính cận lấp lánh của Billy, và ánh sáng từ cây đèn cầy đang nhảy múa khắp mọi nơi. Khi Charlie đứng bên cạnh đứa thằng bé, hình ảnh phản chiếu của nó trông mờ ảo, mơ hồ.
“Họ đang đến đấy,” Billy thì thầm. Nó đứng đó, mê hoặc, nhìn trừng trừng vào bức tường kính.
Charlie bắt đầu nhận ra những hình dạng không rõ ràng đang trôi dật dờ đằng sau hình ảnh phản chiếu của Billy. “Em thấy gì?” nó hỏi khẽ.
“Mọi người,” Billy thì thào, “Cả một gia đình. Một người đàn ông đang mặc bộ áo giáp nhưng không có mũ sắt. và một phụ nữ tóc vàng đang cười. Họ đang ngồi quanh một chiếc bàn và đang ăn uống – có lẽ họ đang có yến tiệc. Họ đói nhưng rất vui vẻ. Một trong số họ trông rất giống em. Anh có nghe không, Charlie?”
“Không. Chẳng nghe thấy gì cả.”
“Em có thể nghe thấy những cái tên. Và có ai đó đang hát.”
“Tên gì?” Charlie hỏi.
“Người phụ nữ tóc vàng gọi người đàn ông là Amadis – và bà ấy gọi đứa con trai trông giống em là Owain. Và rồi Amadis nói, “Hát lại đi, Amoret. Anh thích bài hát đó.”
“Amoret!” Charlie kêu lên.
“Suỵt! anh làm họ sợ biến đi mất.”
“Amoret?” Charlie nói, hạ thấp giọng xuống. “Em có chắc là ông ta nói là Amoret không?”
“Vâng,” Billy thì thầm. “Người phụ nữ đang hát là Amoret. Bà ấy có mái tóc đen và rất xinh đẹp.”
Charlie nhìn trừng trừng vào bức tường lịch sử, trừng trừng, mong muốn gặp một người nào đó, một người nào đó mà có thể kéo nó vào. Cuối cùng, nó bắt đầu nghe thấy tiếng hát xa xa và nó thấy mình đang trôi bồng bềnh tới một khuôn mặt xanh xao được đóng khung bởi mái tóc đen quăn.
“Charlie!” Billy hét lên “Không phải anh đang định đi vào trong đó chứ? Đừng! Đừng! Anh sẽ không bao giờ ra ngoài được đâu.”