Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương

Chương 12 :

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


CÂY THỦY TÙNG ĐEN



Charlie vùng vẫy như đang bơi dưới nước. Việc tiến đến một hình ảnh nào đó thì khác hẳn với việc chui vào một bức tranh hay một bức hình. Khuôn mặt của Amoret vẫn từ từ biến mất. Có vẻ như bà ấy đang cố gắng đưa nó quay trở về.



Nhưng Charlie không đi. Nó tìm cách tiến lên phía trước, quạt không khí sang hai bên và đạp vào cái sợi dây vô hình đang níu giữ nó quay lại. Cuối cùng nó cũng vào được trong căn phòng nơi có người phụ nữ đang đứng ôm chặt lấy hai đứa trẻ. Hoàng tử Amadis đã đi và Amoret đang nhìn thẳng vào Charlie.



“Đi đi” Amoret thét lên. “dù ngươi có là bất cứ ai cũng phải rời đi ngay!”



Và bây giờ Charlie mới nhận thức được những âm thanh khủng khiếp bên ngoài căn phòng. Tiếng dộng thình thình của những tảng đá lớn đập vào cánh cửa nặng nề, tiếng xé gió của những mũi tên., tiếng la hét và cả những tiếng rên rỉ của cuộc giao tranh ngoài kia. Nó lại trôi lềnh bềnh ra ngoài sân, trong đám đông hỗn loạn ấy, nó thấy một thằng bé tóc trắng với con quạ ở trên vai. Thằng bé đâm bổ tới một cái giếng và leo xuống. Ngay sau đó, tòa lâu đài chìm trong biển lửa và Charlie bị kẹt giữa những bức tường lửa ấy.



“Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Charlie hét lên kinh hoàng.



Nhưng có cái gì đó đang kéo nó xuống. Nó không thể thoát ra mà cũng không thể thở được.



Có một tiếng “rắc” chói tai vang lên, liền theo sau là tiếng kính vỡ tan. Nó gợi cho Charlie nhớ đến những vụ bể bóng đèn của ông cậu Palton, và ngay lập tức một câu hỏi bật lên trong đầu nó: liệu ông cậu có được an toàn ở nhà không?



“Charlie! Charlie! Quay lại nhanh!” một giọng nói xa xăm gọi nó.



Charlie chớp mắt và thấy mình đang nhìn vào một tấm gương vỡ với muôn ngàn tia sáng nhảy múa trên khắp các ô cửa. Những mảnh thủy tinh vỡ đầy quanh nó, lấp lánh như kim tuyến.



“Charlie!” Billy đứng đàng sau nó, tay cầm nến. “anh đã trở lại chưa?”



Charlie chớp mắt lần nữa và rùng mình. “ừ, anh đã trở lại.”



“Ông Tuccini phải phá kính. Em nghĩ là anh đã bị mắc kẹt trong bức tường lịch sử.”



“Có vẻ như đó là cách duy nhất để cứu cháu thoát ra ngoài.” Albert Tuccini nhìn Charlie. “Cái việc cháu làm thật là kì lạ. Nhưng không phải lúc nào cũng suôn sẻ nhỉ?”



“Vâng, không phải lúc nào cũng suôn sẻ.” Charlie thú nhận. “Nhưng con phải vào trong đó, bởi vì tổ tiên của con Amoret đang ở trong đó. Bà ấy chắc hẳn là đã ở trong tòa lâu đài khi nó bị thiêu cháy, trước khi biến thành gương. Nhưng những con cháu của bà đã ở đâu?”



“Không phải lúc nào mình cũng tìm ra câu trả lời đâu.” Albert nói, “Thôi nào. Cháu đã phải trải qua một vài chuyện dễ sợ đấy. Hãy đi nghỉ đi.”



“bức tường lịch sử đã bị vỡ rồi. Đó là lỗi của con.” Charlie nói, giọng rầu rĩ.



“Chỉ bề mặt bị vỡ thôi,” Albert nói. “Những bức tường rất dày. Chúng có thể chịu đựng một lực lớn hơn cái giày cũ của tôi rất nhiều.” nói rồi ông giơ một chiếc giày màu đen lên trước khi đeo nó vào chân trái, buộc chặt dây và tiến về phía cầu thang.



Khi Charlie quay trở lại phòng của Albert Tuccini thì những tia nắng bình minh đang bắt đầu len lỏi vào những bức tường bằng gương. Cơn bão đã đi qua và Albert nhận xét rằng hôm nay sẽ là một ngày đẹp trời. Nếu chúng rời đi nhanh, thủy triều sẽ đưa chúng an toàn vào đất liền.



“ba sẽ đi với tụi con chứ?” Charlie nài nỉ.



Albert xòe tay ra. “Tôi không dám.”



“Nhưng tại sao chứ? Chúng con sẽ giữ cho ba được an toàn mà.” Charlie hùng hồn. “Ba phải quay trở về, vì mẹ và vì mọi thứ.”



“Tôi đã có vợ rồi à?” Albert trông có vẻ sửng sốt.



“Tất nhiên. Chứ ba nghĩ con ra đời như thế nào?” Charlie nói một cách giận dữ. Đồng thời nó cũng cảm thấy một nỗi sợ hãi đang dâng lên. Nó đã tìm thấy cha nó rồi lại để ông ở một nơi mà có lẽ nó chẳng bao giờ có thể gặp lại. Nếu bà nội Bone mà biết nó đã đến hòn đảo này thì nhà Yewbeam chắc chắn sẽ chuyển cha nó đi một nơi nào đó mà nó khó có thể tìm thấy được.



Và chính là Billy đã thuyết phục được Albert khiến cho ông phải đi theo hai đứa nó. “Chúng cháu không thể tự chèo thuyền được.” Nó bảo, hai con mắt lớn của nó đầy lo lắng. “Chúng cháu cần ông giúp, ông Tuccini. Charlie không đủ khỏe để chèo suốt quãng đường như vậy lần nữa.”



Albert vuốt mái tóc quăn. “ừm. Có lẽ đó là điều tôi phải làm.” Ông dẫn hai đứa nó ra khỏi tòa tháp, băng qua cái sân và tiến đến một cánh cửa được làm bên trong những bức tường kính. Chỉ một cú đẩy và cánh cửa nhẹ nhàng mở ra. Khi chúng đã bước ra ngoài, Albert đóng cánh cửa lại. Bây trông nó thật khó phân biệt với những bức tường của tòa lâu đài. “Nó chỉ có thể được mở ra từ bên trong,” Albert bảo hai đứa nó. “Để đi vào người ta phải đi theo một đường ống.” Cái cảnh bà cô Eustacia trượt xuống theo đường ống thình lình lóe lên trong đầu Charlie, và nó tự cười nhăn nhở một mình.



Khi chúng đã đi vào bờ, Charlie kể cho Billy nghe về đứa con trai tóc trắng mà nó đã thấy trèo xuống giếng. “Đó là cách mà nó sống sót,” nó bảo Billy “Nó trèo lên sau đám cháy, và bằng cách nào đó nó đã đến được đất liền và đi đến châu Âu với con quạ của nó. Đó là nguồn gốc cái tên của em. Và người bảo vệ của em, Christopher Crowquill có tổ tiên là anh trai của tổ tiên em.”



“Có lẽ em sẽ có thể sống chung với Christopher Crowquill,” Billy nói một cách hi vọng.



Charlie im lặng. Christopher tội nghiệp bây giờ còn gặp nhiều nguy hiểm hơn Billy. Ông ấy còn không thể tự chăm sóc cho bản thân mình. “Ông cậu Palton sẽ biết phải làm gì,” Charlie lẩm bẩm.



Albert Tuccini sải những bước dài đằng trước tụi nó. Ông bảo chúng rằng ông đi bộ ra bãi biển mỗi ngày. “Để tập thể dục,” ông hét về phía chúng. “Hít thở không khí trong lành và giữ cho chân tay vẫn còn hoạt động tốt.”



May mắn là cơn bão đã thổi cái thuyền vào đất liền chứ không thổi ra biển. Albert và tụi nó xắn quần lên và cởi giày tất ra. Họ kéo thuyền xuống nước và trong khi Charlie và Billy ngồi co vào một chỗ, Albert ngồi đối diện và nắm lấy mái chèo. Lưng của ông xoay về hướng những vách đá cao trong đất liền nên ông không thấy hai hình dạng đang đứng ở bãi biển phía xa.



Charlie thấy họ đầu tiên. Tim nó đập cái thịch. Liệu có phải là nhà Yewbeam không? Billy cũng đã thấy và nó giật tay áo của Charlie. “Họ đến để bắt em về,” nó thút thít. “Đáng lẽ em nên ở lại trên đảo.”



“ở đó cũng không an toàn đâu,” Charlie bảo nó. “Bình tĩnh lại nào, có thể không phải là họ.”



Albert ngoái đầu lại. “Có người. Cháu có thể thấy là ai không, Charlie? Cháu có muốn quay trở lại lâu đài không?”



Charlie nheo mắt lại và chăm chú nhìn. “Không,” nó nói chậm rãi. “Con nghĩ – phải, phải, con biết chắc họ là ai.” Bởi vì một trong hai hình dạng đó đã bắt đầu rõ nét. Một người đàn ông cao với mái tóc đen và chiếc áo khoác cũng màu đen. “phải!” Charlie reo lên. “Đó là ông cậu của con Palton. Con không biết người kia là ai nhưng ông ấy rất nhỏ và bị gù. Con không nghĩ ông ấy có thể gây nguy hiểm.”



Charlie phấn khởi tới nỗi nó nhảy lên khỏi chỗ ngồi khiến cho con thuyền nghiêng sang một bên.



“woa!” Albert kêu lên. “Cháu sẽ khiến chúng ta rơi xuống nước mất, Charlie Bone!”



Được giúp đỡ bởi nước triều đang lên, họ vào bờ rất nhanh. Charlie nóng lòng muốn thấy mặt ông cậu Palton khi Albert bước lên bờ, bởi vì Lyell Bone đã từng là người bạn thân thiết nhất của ông cậu, và ông cậu chắc chắn sẽ giúp cho ông nhớ ra ông là ai.



“Ông cậu Palton!” Charlie gọi. “Đoán xem con tìm được ai này!”



Palton vẫy tay và hét lên. “Ta đã thấy mi đi với Billy Raven rồi. Còn đây là ông Crowquill.”



“Không, không! Ông cậu không hiểu rồi.” Charlie không thể chịu được sự trì hoãn.



Albert nhìn về bờ biển, nhưng ông cậu Palton không tỏ dấu hiệu gì là đã nhận ra ông. Chiếc thuyền cập vào bãi cát, Albert và hai đứa leo ra, lội bì bõm qua vùng nước cạn khi họ kéo chiếc thuyền vào bờ.



Charlie không thể chờ đợi thêm nữa. “Nhìn này, ông cậu Palton, con đã tìm thấy cha rồi.”



Ông cậu Palton nhìn Albert với một cái cau mày bối rối. Cuối cùng ông nói, “Charlie đây không phải là cha con.”



Charlie bị sốc tới mức không thốt nên lời.



“Họ gọi tôi là Albert Tuccini,” Albert nói, chìa tay ra. “rất vui được gặp ông.”



Ông cậu cũng tự giới thiệu mình và Christopher và họ bắt tay nhau.



Charlie cảm giác một khối chì đang đè nặng lên ngực mình. Nó đau đớn tới nỗi Charlie không thể nhúc nhích mà cũng không thể suy nghĩ được gì. Một đám mây thất vọng bao trùm lấy nó, bóp nghẹt mọi tiếng kêu. Nó lờ mờ trông thấy Christopher Crowquill đang ôm lấy Billy. Và nó cũng trông thấy ông cậu Palton đang lắng nghe Albert và đang nhìn ra biển về phía lâu đài bằng gương. Ông cậu chắc hẳn là đã thuyết phục được Albert không quay về hòn đảo nữa vì một lát sau cả cái nhóm người vui vẻ ấy cùng đi trên bãi biển.



“Charlie, vẫn ổn chứ nhóc?” ông cậu Palton ngoái lại và đợi nó đi cùng.



“Con … con … vâng,” Charlie nói một cách đau khổ. Nó bước đến bên ông cậu.



“Thất vọng lắm phải không? Ta xin lỗi, Charlie.” Ông cậu bóp chặt vai nó.



“Không sao. Con ngốc quá. Con đã biết không thể là ông ấy mà.”



“Một ngày nào đó sẽ là có thể,” ông cậu nói.



Charlie nhìn ông cậu và Albert kéo con thuyền vào hang động. Và rồi tất cả bọn họ đều leo lên những vách đá qua một cái vịnh khác nơi một con đường mòn hẹp uốn lượn đến tận đỉnh của vách đá.



Christopher Crowquill dẫn đường với Billy ở đằng sau. Kế đến là ông cậu Palton, theo sau là Charlie. Albert Tuccini đi sau cùng. Việc leo trèo khá nguy hiểm và khi họ đi được nửa đường, ông cậu Palton bảo, “Mi đã thấy bọn ta xuống thế nào rồi đấy, hầu như toàn đi bằng mông.”



Charlie cố rặn một nụ cười nửa miệng. Nó ngoái đầu nhìn lại tòa lâu đài bằng gương. Nó được che phủ bởi màn sương mù và chẳng mấy chốc không trông thấy đâu nữa. Nhưng những bí mật ghê gớm của nó vẫn còn ở đó, ẩn giấu trong những bức tường lịch sử và một ngày nào đó Charlie phải quay trở lại để khám phá chúng.



Khi họ lên tới đỉnh của vách đá, thủy triều đã lên cao. Đứng trên cao nhìn xuống, Charlie trông thấy những con sóng bạc đầu đang dộng ầm ầm vào thành đá đen lởm chởm.



Albert Tuccini đã theo dõi Charlie một cách lo lắng. Ông đặt tay lên cánh tay của nó và bảo, “Tôi xin lỗi, tôi đã không phải là cha của cháu.”



“Không sao đâu ạ,” Charlie nói, giọng nó nghe nghèn nghẹn.



Họ đi bộ lên đỉnh vách đá tới chỗ ông cậu Palton đã đậu xe. Khi họ đang quay đi, một con chim đột ngột thét lên tiếng kêu lảnh lót và tung cánh bay vào bầu trời. Charlie chăm chú nhìn về trước xem cái gì đã khiến con chim sợ hãi đến vậy và nó thấy một hình dạng đen thui đang đứng ngay trên lối mòn.



Ông cậu Palton đi chậm lại. “Cái gì..?” ông lắc đầu. ‘một cái cây” và vẫn sải bước đi trước.



Khi đến gần cái cây, họ thấy một mớ lùm xùm kì dị chẳng ra hình dạng gì. Những nhánh cây cong queo phủ những chiếc lá kim đen mỏng mảnh và vỏ cây thì chằng chịt những rãnh nứt nẻ.



“Một cây thủy tùng đen.”giọng ông cậu Palton rùng mình.



Trước mắt họ, một khuôn mặt méo mó tựa các thần lùn giữ của trong truyện cổ hiện ra trên lớp vỏ cây xù xì. Các nhánh cây co quắp lại khiến những chiếc lá kim rơi lả tả như mưa – mưa màu đen. Và thân cây quằn quại từ từ hiện nguyên hình là một người đàn ông cao lớn. Đó chính là Tantalus Ebony. Lão nhìn trừng trừng vào cái nhóm người đang đứng bất động trước mặt, cặp môi mỏng dính của lão uốn thành một nụ cười thâm độc.



Charlie không tin nổi vào mắt mình nữa. Tantalus Ebony là người biến hình?



Lão lên tiếng. “Chúng ta lại gặp nhau, Palton Yewbeam.”



“Cái gì..?”



“Thôi nào, Palton. Đừng nói với ta là mi không trông đợi giờ phút này nhé. Ta đã cảnh cáo mi, đúng không, rằng nếu mi làm hại con gái ta, Yolanda, mi sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mi?” giọng nói vang rền như thể nó đến từ sâu trong lòng đất. “MI ĐÃ GIẾT ĐỨA CON GÁI YÊU QUÍ CỦA TA!” lão đột ngột rống lên.



“Yorath,” Palton nói chẳng chút sợ hãi, “Con gái ông là một con quái vật.”



Lão biến hình gầm lên giận dữ và lao hết tốc lực về phía Palton. Charlie có thể mục kích những gì sắp diễn ra. Bất kể mạng sống mình, Tantalus sẽ đẩy ông cậu vào vách đá. Charlie níu chặt lấy Palton, nhưng ông cậu đã đẩy tay nó ra và bước lên đằng trước.



Đột ngột, một thân hình nhỏ bé màu xám lao vào Tantalus. Trong giây lát, họ vật lộn với nhau, và rồi, ngạc nhiên làm sao Christopher Crowquill đã ép được lão biến hình kia tới vách đá. Nó xảy ra nhanh đến mức không một tiếng kêu, không một động tác nào đủ nhanh để ngăn cho cả hai người đâm thẳng đến bờ vực – và thế là hết!



Có một tiếng thét và rồi im lặng.



Palton chạy tới chỗ hai hình người đã biến mất. Ông giang tay ra khi Charlie và Billy nhảy tới. “KHÔNG!” ông kêu lên, bắt tụi nó trở về chỗ cũ. Nhưng Charlie đã thấy mặt nước sủi bọt và những tảng đá đen. Không có gì khác, ngoại trừ một con chim đang chao cánh trên ngọn sóng. Một con quạ hay một người biến hình?



“Ông ấy đã hi sinh để cứu tôi,” Palton nói giọng khàn khàn.



“Tại sao?” Billy gào lên “Tại sao ông ấy lại làm như vậy? ông ấy là người họ hàng duy nhất của tôi. Người bảo vệ của tôi. Bây giờ chẳng còn ai hết.”



“Vẫn còn có chúng tôi đây.” Charlie nói.



“Tại sao? Tại sao vậy?” Palton lắc đầu. “Thật không hiểu.” ông như đang cố thu mình lại. “Chúng ta phải rồi khỏi đây thôi. Tôi sẽ báo động cho người bảo vệ bãi biển khi chúng ta đã đi xa khỏi cái nơi quỉ quái này. Không thể làm gì hơn được nữa.”



Một thoáng im lặng, họ lại tiếp tục đi cho đến khi họ đến được chỗ để xe của Palton. Charlie và Billy ngồi băng sau trong khi Albert ngồi ghế trước.



Trong khi lái xe, ông cậu Palton giải thích cuộc tấn công của lão già biến hình cho Albert Tuccini, lúc này vẫn đang còn hoang mang, nghe. “Lão quá già đến nỗi lão phải mượn hình dạng và đôi khi cả trí óc của những sinh vật khác. Con gái của lão cũng tồi tệ như vậy. Bà ta đã giết mẹ tôi và rồi còn làm hại một người rất đỗi yêu quý của tôi.”



Charlie thì thầm, “Cô Ingledew?”



Billy ngoảnh đi và rúc vào trong góc, một bức tranh sầu thảm.



“bà ta chắc hẳn rất độc ác.” Albert nói.



“Tôi đã giật điện chết bà ta,” Palton nói tỉnh không.



Nếu Albert có bị sốc, ông đã không để lộ nó. Có lẽ một vài kí ức đang tái hiện lại. Những kí ức quá tệ khiến chẳng có gì làm ông ngạc nhiên được nữa.



Sau khi đã đi được khá lâu, họ dừng xe tại một quán cà phê ở bên rìa một thị trấn nhỏ. Thời tiết ấm áp và ngập nắng nên ông cậu Palton chọn chỗ ngồi ở ngoài trời. Ông đưa cho Charlie một danh sách các món và tiền đủ trả cho bốn suốt ăn trưa. Billy, có vẻ như đã khá hơn một chút, theo Charlie đi vào một căn phòng tối mờ, chỉ được thắp sáng bởi một vài bóng đèn yếu ớt.
“Nó quá rộng lớn,” Charlie phản đối, “Chúng ta có thể phải mất nhiều ngày để tìm kiếm và có thể chẳng bao giờ tìm thấy bà ấy.”



“Mình nghĩ là mình có thể giúp được,” Emma nói lặng lẽ, “Thiên thần Alice trông như thế nào?”



Cả bọn đều trợn mắt nhìn Emma và Olivia nói, “bà ấy có mái tóc trắng và một khuôn mặt xinh đẹp.”



Charlie lại đưa ra một phán đoán mang tính linh cảm, “bà ấy có thể đang cầm một bó hoa, những bông hoa trắng.”



“Mình có thể hình dung được rồi,” Emma nói. “Nào, bây giờ thì mấy bồ cảm phiền vào trong nhà hết đi. Bởi vì mình không thích làm những chuyện mình sắp làm trước mặt một người nào.” Nó nhìn vào những ngón tay đã bị băng lại. “Mình nghĩ Joshua đã sai khiến TanCharlieed làm bị thương mấy ngón tay của mình là có mục đích.”



“Để làm cho bồ không thể bay được.” Olivia trông có vẻ quan tâm. “Đừng cố gắng quá nhé Emma. Nếu đau quá thì thôi đừng làm nữa. bồ có thể rớt xuống đấy.”



Emma xua tụi nó đi. “Sẽ không sao đâu mà.”



Khi chúng đã lần lượt kéo vào trong nhà và đứng bên cạnh những ô cửa sổ kiểu Pháp, cố gắng không nhìn vào trong vườn nhưng thật khó mà ngăn tụi nó lâu lâu lại lé mắt nhìn vào. Emma đang núp sau một bụi cây, và chỉ đến khi một con chim nhỏ màu nâu bay vụt lên cây táo, tụi nó mới biết là Emma đã đi làm nhiệm vụ rồi. Chúng nhìn con chim xoải cánh bay vào bầu trời và nói, “bạn ấy kìa. Nếu có ai đó có thể tìm thấy thiên thần Alice thì người đó chỉ có thể là Emma Tolly.”



Hai đầu cánh bị đau khiến Emma gặp rắc rối khi bắt đầu bay. Nó chao đảo trên đường Filbert nhưng cuối cùng nó cũng lấy lại thăng bằng và bay vút vào một đám mây trên nóc nhà thờ lớn. Lợi dụng thời tiết mùa thu ấm áp, nó thả mình trôi qua thành phố. Con mắt chim sắc bén của nó thấy rõ từng con người đang vội vã hối hả đi bên dưới nó. Nó thậm chí còn bay qua học viện Bloor và tòa lâu đài đổ nát. Nó thấy Billy Raven đang đi dạo qua sân chơi với con May Phúc bám theo sát gót. Nó những muốn dừng lại và nói chuyện với thằng bé nhưng thời gian bây giờ rất quý giá.



Con chim Emma sắp sửa bay qua đống hoang tàn đổ nát thì nó thấy một thứ gì đó khiến nó mất tập trung và rơi thẳng xuống mặt đất.



Sâu trong đống hoang tàn ấy, những bức tường mọc đầy những cây trường xuân cao lớn bao quanh một khu vườn xanh mát và bí mật. Ở giữa vườn sừng sững một cái cây lá đỏ. Một âm thanh phát ra từ cái cây, một loại nhạc mà Emma chưa từng nghe bao giờ. Sáng bừng lên giữa những bức tường là một con ngựa trắng đang gặm cỏ dưới gốc cây. Emma không chút nghi ngờ rằng cái cây và con ngựa thuộc về nhau và chúng là một phần của cái thế giới hoàn toàn khác với thế giới của nó.



Con ngựa ngẩng đầu lên và trông thấy Emma. “Con ta,” nó nói, “Đứa con của ta.”



“Tôi đang bay,”Emma nói.



“Cầu chúc cho những điều may mắn sẽ bay cùng với con,” con ngựa nói. Một niềm hy vọng trào dâng đưa Emma bay trở lại bầu trời. Đôi cánh của nó không còn đau nữa và nó cảm thấy hết sức hạnh phúc. Với nguồn năng lượng mới nó tiếp tục sục sạo thành phố cho tới khi nó đến một công viên ở cuối đường Filbert. Bên dưới nó là một người phụ nữ tóc trắng ngồi một mình trên băng ghế. Đầu của bà cúi xuống một bó hoa trắng trong vạt áo.



Emma kêu một tiếng chói tai và người phụ nữ nhìn lên. Bà có một khuôn mặt thật đẹp nhưng buồn. Emma vòng trở lại và bay về phía khu vườn nhà Olivia. Ba đứa kia vẫn tụ tập quanh cửa sổ khi nó hấp tấp chạy lại trong hình dạng người và hét lên, “Mình đã tìm được bà ấy. Mình đã tìm được rồi. Bà ấy đang ở trong công viên.”



Bốn đứa trẻ và một con chó chạy nước rút về phía công viên, băng qua cánh cổng, xuyên qua bãi cỏ tới chỗ băng ghế nơi thiên thần Alice đang ngồi một mình. Khi bà thấy Olivia, khuôn mặt buồn của bà ấy nở một nụ cười. “Olivia, con đến đây để nói lời từ biệt à?’



“Con đến để nói lời xin lỗi” Olivia thốt lên. “Con xin lỗi vì mọi thứ, vì đã không tin bà, vì một người bạn đã ra đi của bà.”



Bà đưa bó hoa lên mặt và hít thở hương thơm của nó. “Ta muốn đặt bó hoa này lên mộ của ông ấy, nhưng tất nhiên ông ấy đâu có nấm mộ nào. Tội nghiệp Christopher.”



“Con xin lỗi, thành thật xin lỗi,” Olivia thổn thức, gần như không kìm chế được nỗi ân hận.



“dù sao con đã đến gặp ta. Chưa hẳn là đã quá muộn.” Alice đứng dậy. “Và con, Charlie, là con đã mang nó đến đây à?”



“Tất cả chúng con,” Charlie nói. “bạn của con Fidelio.” - Fidelio cúi người xuống – “Nhưng công lớn nhất là thuộc về Emma. Bạn ấy đã tìm ra bà.”



“À!” Alice đưa mắt nhìn Emma với vẻ hiểu biết, rồi bà cẩn thận đặt bó hoa lên cái ghế dài và quay về phía Olivia. “Con đã sẵn sàng chấp nhận tài phép thừa kế chưa?”



“Con cho là con đã sẵn sàng rồi,” Olivia đáp lại.



“Và ai là người con muốn cho họ thấy những gì con có thể làm?” Alice hỏi.



“Những người bạn của con, tất nhiên.” Olivia trả lời.



“Không một ai khác nữa chứ?” Alice nói một cách trang nghiêm “Con có thể chọn người để thể hiện tài phép của con.”



“Thật chứ?” khuôn mặt hớn hở của Olivia đã trở nên nghiêm túc lại. Nó nhìn người chạy xe đạp đang chạy vèo vèo trên con đường, hai đứa trẻ đang chơi bóng đá, và một người phụ nữ đang dắt chó đi dạo. “Ngay bây giờ con chỉ muốn bạn con và bà là thấy được nhưng gì con có thể làm - ồ, cả con Hạt Đậu nữa, tất nhiên.”



“rất tốt! hãy nghĩ về một thứ gì đó, bất cứ thứ gì. Hãy tập trung nghĩ. Hãy hình dung nó trong tâm trí con, mọi mặt!”



“Khoan đã, con sẽ không hóa thành cái mà con đang nghĩ chứ?” Olivia hỏi.



“Không,” bà Alice trả lời.



“Vâng. Con tiếp tục đây.” Sự tập trung khiến trán nó nhăn lại, và rồi một ánh nhìn tinh quái quen thuộc lại lóe lên trong đôi mắt của nó. Mọi người đều đứng yên, ngay cả con Hạt Đậu cũng vậy, nó cỏ vẻ hiểu được tình huống nghiêm trọng của vấn đề. Sau một phút im lặng hoàn toàn, Alice nói, “bây giờ thì hãy quay lại nhìn xem, Olivia.”



Olivia quay lại nhìn, mọi người cũng nhìn theo. Ở chính giữa công viên là một đám mây u ám khổng lồ. Dần dần nó chuyển thành một hình dạng run rẩy chả ra hình thù gì.



“Không,” bà Alice nói. “Con chưa làm được đâu, Olivia. Hãy thư giãn nào! Con đã quá căng thẳng rồi.”



Olivia mỉm cười và khép hờ mắt lại. Cái hình thù ấy bắt đầu đặc lại và biến thành một thực thể thật khủng khiếp.



Fidelio hét lên trước, rồi con Hạt Đậu cũng tru lên kinh hoàng một cách bản năng. Miệng của Charlie trễ ra nhưng nó quá sợ đến nỗi không phát ra được âm thanh nào. Nó biết là những gì nó thấy không có thực nhưng cái vật ấy trông thực quá, cái mùi cũng thực và âm thanh cũng thực. Một con khủng long khổng lồ, một con khủng long bạo chúa đứng cách tụi nó vài bước chân. Cái miệng vĩ đại của nó ngoác ra, hơi thở thì khủng khiếp, và tiếng gầm của nó có thể làm đông máu bất cứ ai, một âm thanh mà chỉ có thể nghe thấy trong những cơn ác mộng.



Vẫn tru tréo, con Hạt Đậu chạy trước. Nó vọt tới cánh cổng công viên với ba đứa trẻ đang gào thét hãi hùng đằng sau nó. Khi người chạy xe đạp thấy tụi nó, ông ta hét lên “Cái …cái …?” và ngã lăn xuống xe. Hai đứa bé nhặt lấy quả bóng và vừa chạy về phía những cái cây vừa la hét “Có ma! Có ma!” con chó nhỏ nhảy vào thùng rác và chủ nhân của nó thì tưởng là chúng bị điên.



“dừng lại đi mấy đứa!” bà Alice gọi, “Nó không thể làm hại các con được.”



Từ một khoảng cách an toàn, chúng quay lại và nhìn cái sinh vật khủng khiếp ấy. Hàng tràng cười lan khắp công viên khi Olivia nghiêng ngả cười không ngớt. Alice đặt tay lên vai nó và nói gì đó, nó gật đầu. Nó thôi cười và quay lại. Sau lưng nó, cái hình ảnh kinh dị kia mất dần hình dạng. Dần dần nó tan thành một đám những hạt nước li ti lơ lửng trong không khí như một trận mưa lá chết.



Olivia vỗ tay và nhảy một điệu. Trước khi bạn bè của nó kịp hoàn hồn sau cái ảo ảnh thứ nhất, một cái khác lại hiện ra. Một bữa tiệc được phục vụ trong những cái dĩa bạc đặt trên một cái bàn dài. Và còn có Người Làm Mũ Điên, Thỏ Hành Quân và Chuột Sóc, nửa thân người trong một cái ấm trà.



Tiếp đến là một dải cầu vồng vắt ngang qua công viên và khi nó tan đi, một hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng chói phi nước đại qua bãi cỏ trên một con ngựa lớn với dây cương bằng da và một cái áo choàng đỏ thêu chỉ vàng. Charlie có thể nghe thấy tiếng thình thịch của vó ngựa, tiếng sột soạt của da và tiếng kêu lanh canh của đinh thúc ngựa.



Olivia nhảy múa quanh bà Alice với cái đầu ngửa ra sau và đôi cánh tay vung vẩy mở rộng. “Hãy nhìn những gì con có thể làm này,” nó lại la lên “Nhìn xem! Nhìn xem! Nhìn xem!”



“rất ấn tượng,” Fidelio thì thầm với Charlie. “Mình không biết con nhỏ đó thế nào nhưng mình thấy mệt quá.”



Con Hạt Đậu cố gắng chui xuống đất vừa rên rỉ vừa bịt mắt bằng cái chân to tướng của mình.



Alice lại nói với Olivia và khi hiệp sĩ và con ngựa của ông ta rời sân khấu thì không có cái gì hiện ra nữa.



Olivia nằm vật xuống thảm cỏ, thở phào, “phù! Mình đã hơi quá trớn phải không?”



Alice bật cười với nó. Những đứa khác thì thận trọng tiến lại gần nhưng con Hạt Đậu vẫn ở nguyên chỗ cũ, chân nó vẫn bịt mắt.



Khi cả bọn đã ngồi thoải mái trên băng ghế và cố gắng kéo mình quay trở lại thực tại. Olivia hỏi Alice tại sao nó phải tốn một thời gian lâu như thế để phát hiện ra khả năng của mình. “Và làm sao bà có thể biết được điều đó? Và tại sao lại là táo?”



Alice chăm chú nhìn những bông hoa trong vạt áo. “Thật là khó để diễn tả thành lời,” bà ấy nói “Ta luôn biết rằng một ngày nào đó ta sẽ gặp một vài người cần đến sự trợ giúp của ta để khám phá ra chính bản thân của họ. Đó là một khả năng kì lạ, con có thể nghĩ như thế” bà nhìn Charlie đang ngồi bên cạnh mình.



Charlie nói, “Tất cả những tài phép được thừa kế đều kì lạ.”



Alice mỉm cười với nó. “Đúng vậy. Nói ngắn gọn, ta được nhờ đi trang trí căn phòng cho một đứa bé trong ngày lễ rửa tội.” Alice liếc nhìn Olivia. “Mẹ của đứa bé rất hài lòng với những bông hoa của ta cho nên bà ấy mời ta đến tham dự bữa tiệc. Ta không ngờ rằng nó sẽ là một trong những ngày quan trọng nhất của đời ta. Họ mang đến một đứa bé và mọi người vây quanh nó, thủ thỉ, cười nói với nó, chính là Olivia.”



“Con có phải là một đứa bé xinh đẹp không?” Olivia hỏi.



“Thành thật mà nói, con hơi mũm mĩm một chút, nhưng mà” – bà nghiêm nghị nhìn Fidelio và Charlie đang cố nín cười – “Ngay khi ta thấy con, Olivia, tim ta đã lỗi nhịp. Ta tự hỏi điều gì đang xảy ra cho ta. Sau đó, họ đặt con trong một cái nôi xinh xắn, và khi ta đã quan sát con kĩ hơn, ta biết con là một đứa trẻ đặc biệt. Ta cũng biết rằng cần phải tốn tới 12 năm để con có thể chấp nhận tài phép của mình.”



“Làm sao mà bà biết được ạ?” Olivia sốt sắng hỏi.



“Điều này nghe có vẻ rất kì dị.” bà Alice nói.



“Chúng con không quan tâm,” Charlie nói “Mọi thứ đều đã rất kì dị rồi.’



“Có một cây táo ở cuối vườn nhà ta. Nó là của ta bởi vì nó mọc lên ở đó, nhưng nó cũng là của con, Olivia, bởi vì một cành cây đã nghiêng sang vườn nhà con. Có 13 quả trên cành táo ngày đó và …và…” bà Alice ngừng lại, và rồi bằng một giọng thì thầm đến mức mấy đứa kia phải nhoài sát lại để nghe, bà tiếp tục kể. “ một giọng nói trong đầu ta bảo rằng, “Vào năm thứ 13 của cây táo, cầu chúc cho nó có thể chấp nhận tài phép của mình một cách tự nhiên.”



“ồ!” Olivia reo lên, mọi ý nghĩ chợt sáng tỏ trong đầu nó. “Con được 12 tuổi vào đầu học kỳ này. Cho nên hiện giờ con đang ở tuổi thứ 13. Và những quả táo … chúng không thể bị gọt vỏ cho tới khi nào con chịu tin và chấp nhận.”



“Đúng thế đấy, Olivia.” Bà Alice nói. “Ta hi vọng là con sẽ vui.”



“Vâng, tất nhiên, con cảm thấy rất vui. Nhưng con cảm thấy hơi lạc lõng một chút vì con chưa bao giờ là một người trong số họ cả.” nó nhăn nhó một cách ân hận với Charlie. “Và bây giờ thì con chẳng biết cần phải làm gì với cái tài năng kì lạ này.”



“Ta chắc là bạn con sẽ giúp con tìm ra.” Alice nhìn Charlie.



Fidelio chợt lên tiếng hỏi, “bà là một phù thủy phải không bà Alice?”



Alice cười. “Ta cho là như thế. Nhưng ta là một phù thủy Thiện.” bà ngừng lại và nghiêm giọng “Ta không muốn đánh động các con nhưng các con cần được cảnh báo trước – khi một phù thủy Thiện xuất hiện thì cũng có một thế lực đen tối khác tồn tại.”



“Người đó là ai?” Charlie hỏi.



“Ta e là ta không biết,” Alice đứng dậy. “Và bây giờ ta phải đi thôi.” Bà nói một cách dứt khoát. “Ta còn có việc cần phải làm”



“bà thật sự phải đi à?” Olivia kêu lên.



“Ta đã hoàn thành sứ mệnh của ta – ít nhất là một trong số đó.” Alice phác một cử chỉ tỏ ý hài lòng. “bây giờ con phải tự quyết định lấy mọi việc, Olivia. Nhưng ta tin con sẽ thích ứng nhanh thôi.”



Olivia nhảy lên và ôm chầm lấy bà. “Cám ơn bà,” nó nói, “Cám ơn bà vì đã làm thiên thần hộ mệnh của con.”



“Ta cũng rất vui vì điều đó.” Alice nói.



Emma hỏi, “Trước khi đi bà có thể nói cho tụi con biết, liệu cái bà phù thủy kia, cái bà phù thủy hắc ám ấy, có theo bà không?”



Alice hơi nhún vai. “Ta không có cách nào biết được điều đó. Còn bây giờ, xin tạm biệt, những thiên thần bé nhỏ của ta.”



Chúng đứng trông theo bóng dáng thiên thần Alice đi xa dần rồi biến mất qua cánh cổng công viên. Bà ấy không quay lại, và sự biến mất của bà cứ như là tan biến vào không khí, như thể bà ấy chưa hề ở đó vậy. Và những bông hoa vẫn được đặt ở nơi bà đã để nó lại.



“Mình sẽ đem về tặng mẹ,” Olivia nói, “bà ấy thích hoa trắng lắm.”



Tâm trí của Charlie vừa quay lại với những vấn đề ở học viện Bloor và nó bắt đầu lên kế hoạch cho Olivia. “Mình nghĩ bồ nên giữ bí mật về tài năng của bồ,” nó bảo Olivia. “Mọi người có đồng ý không?”



Fidelio nói, “Như kiểu một vũ khí bí mật hả?.”



“ý bồ là không một ai được biết trừ chúng ta?” Emma hỏi.



“Không một ai,” Charlie nói.



“phù hợp với mình đấy,” Olivia nói, “Nhưng mình có thể giúp được gì đây?”



“bồ có bao giờ ở trong phòng nhà vua chưa?” Charlie hỏi.



“rất nhiều lần, khi mình bị cấm túc ấy.” Olivia trả lời.



“Tốt. Việc đầu tiên phải làm là khiến cho Joshua trông gớm ghiếc, thật gớm ghiếc,” Charlie tiếp tục nói, thích thú với cái viễn cảnh mà nó sắp dựng lên. “Đến nỗi Tancred phải thấy ghê tởm với nó. Và những đứa khác cũng có thể cảm thấy ghê tởm như thế.”



“Mình có ý này,” Fidelio nói, “Tất cả chúng ta đều biết Tancred sợ gì nhất.”



“Nhện,” Emma tiếp lời.



“Nhện,” Charlie đồng ý. “Điều thứ hai là phải khiến cho lão Ezekiel Bloor một phen vỡ mật. Mình sẽ có việc phải làm.”



“Ồ, đúng thế!” Fidelio reo lên, đấm tay vào không khí. “điều này sẽ rất tuyệt, rất, rất, rất tuyệt.”