Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương

Chương 7 :

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


Người đàn ông kẹt trong gương



Vào sáng thứ Hai, Charlie đinh ninh là sẽ gặp Billy Raven trên xe buýt trường, nhưng chẳng thấy tăm hơi thằng bé đâu cả.



Cuối cùng Charlie cũng bắt gặp Billy trong hội trường. Thằng nhỏ bạch tạng này trông có vẻ kiệt quệ - có nhưng quầng thâm trũng sâu dưới mắt và gương mặt lộ vẻ bị hành hạ, đói khát.



“Ở nhà thế nào, Billy?” Charlie thì thào khi dàn nhạc giao hưởng nổi lên.



“Tốt,” Billy đáp. “Tuyệt. Thiệt đấy.”



“Anh chờ em hoài. Anh tưởng ba mẹ em chở em tới quán Cà Phê Thú Kiểng chớ.”



“Không. Em... anh biết đấy... nhà em mắc bận,” Billy nói nghiêm trang.



Một trăm đứa trẻ mặc áo chùng xanh da trời cất lên bài hợp xướng đầu tiên, và Charlie đành thôi, tạm thời vậy, nhưung sau giờ ra chơi đầu tiên nó thấy Billy trong phòng để áo khoác xanh da trời.



“Billy...” Charlie mở lời.



“Thôi!” Billy hét lên.



Charlie ngó Billy chằm chằm, ngạc nhiên hết sức.



“Thôi vậy,” nó nói.



“Làm ơn đừng hỏi em về nhà em, hay về ba mẹ em, hay về bất cứ điều gì đại loại nữa, bởi vì em sẽ không nói cho anh biết đâu.”



Hạ thấp giọng, thằng bé thêm.



“Em không nói được.”



Trong thoáng chốc, Charlie bối rối. Gia đình de Grey rõ là đã đe dọa Billy và Charlie không muốn chuốc rầy rà cho thằng bé.



“Thôi vậy. Có lẽ em chỉ cần cho anh biết em có lấy cây gậy phép của anh hay không?”



Gương mặt tái xanh của Billy chợt đỏ rân.



“Em...” Nó chật vật với câu trả lời.



Cuối cùng, nó nói nhỏ:



“Em xin lỗi, anh Charlie. Thực tình xin lỗi.”



“Anh nghĩ em đã đưa nó cho Manfred.”



Lặng lẽ, Billy gật đầu.



“Để anh đoán coi. Hắn đe dọa em sao đó. Xem ra hắn bảo em sẽ không được về nhà mới gì hết.”



Billy lại nín thinh, gật đầu một cái nữa.



Charlie thở dài:



“Phải chi em đừng làm thế, Billy, nhưng anh nghĩ anh cũng không thể trách em được.”



Charlie rời phòng để áo khoác và quầy quả đi tới lớp học của nó. Một tràng cười rộ lên, dội về phía nó khi nó tới phòng học của thầy Tantalus Ebony. Khi bước vô, nó thấy một nửa lớp đang cười khúc khích.



Tantalus Ebony ngồi sau bàn, cằm gục xuống ngực. Cái mũ trùm màu tím bao bọc kín đâu, mắt nhắm tịt và thầy đang ngáy ầm ĩ. Charlie ngồi vô chỗ của mình, kế bên Fidelio, cậu này nằm xoài ra bàn, cười ngặt nghẽo, rung cả người. Charlie cũng không nén được cười, mặc dù nó vẫn hé mắt để ý ông thầy đội mũ trùm.



Bất thình lình, cái đầu của Tantalus Ebony giật ngóc lên và ông ta rống vang:



“Im!”



Giọng ông ta nghe hoàn toàn khác. Tuần trước ông ta có giọng the thé, nhưng giờ đây gịong ông ta nghe rồ rồ từ dưới hang sâu vọng lên. Tiếng rống như một cú điện giật đến nỗi cả lớp đột nhiên im bặt.



Tantalus Ebony hình như hơi chờn chợn vì cái giọng đực sâu phụt ra khỏi họng mình.



“E hèm,” ông ta nói, hắng cho thông cổ. “Ưmm! Ừmm!”



Thiệt khó mà ngó thẳng mặt lên trong khi ông thầy kỳ dị đang chìm trong một cơn ho khạc, rít, hít và thở phù phù, nhưung không đứa học trò nào trong lớp dám để lộ ra một nét cười trên mặt. Chúng đánh hơi thấy mùi cấm túc.



Cuối cùng, ông thầy đã tìm ra được giọng thích hợp cho bài giảng của mình, và với giọng hài lòng nhưng đầu quyền uy, ông ta hô lớn:



“Lịch sử thời trung cổ. hãy mở sách ra trang bốn mươi ba. Vương triều Plantagenet.”



Suốt bốn mươi phút, cả lớp lắng nghe ông thầy Tantalus Ebony mô tả về triều đại vua Henry II và vụ ám sát Thomas à Becket. Đó là một bài học thú vị nhất mà Charlie từng được học. Lúc sắp kết thúc bài học, trước sự ngạc nhiên ngỡ ngàng của tất cả bon học trò, Tantalus Ebony chợt hỏi:



“Và Vua Đỏ đã ở đâu khi những trận chiến, những vụ giết người và xung đột này xảy ra?”



Không đứa nào biết phải trả lời ra sao. Ông Ebony nhìn thẳng vô mặt Emma Tolly và nói:



“Trò phải biết, Emma-kẻ-được-ban-phép-thuật, lẽ nào trò không biết? Trò, kẻ mang dòng máu của nhà Vua trong huyết quản, mang tài phép của nhà Vua trên những ngón tay...”



Rồi Tantalus cúi nhoài người qua bàn và thì thầm khàn đặc:



“...và trong đôi cánh của trò.”



Tất cả lớp nhìn Emma, con nhỏ lắp bắp:




Tay thầy trợ giảng mới ra hiệu cho Charlie ngồi xuống bên bàn trong khi hắn bước đi loanh quanh trong phòng, sượng sùng sờ mò mảng ria mép lún phún trên cằm.



Cuối cùng, hắn hít một hơi và nói:



“Có một bức chân dung của tổ tiên lừng lẫy của chúng ta ở trong phòng Nhà Vua.”



“Dạ,” Charlie cảm thấy sợ khi Manfred bước vòng ra sau, nó sẽ không nhìn thấy được.



“Tao để ý mày hay nhìn vô đó,” Manfred tiếp.



“Thầy?”



“Đừng giả ngây,” Manfred nói cụt lủn. “Chắc chắn mày nhìn nó. Chúng ta thỉnh thoảng cũng nhìn. Nhưng mày, Charlie Bone, mày có động cơ, đúng không?”



“Em?”



“Im đi, Bone,” Manfred quạc. “Mày muốn đi vô trong đó, đúng không? Và chắc hẳn,ày đã vô được rồi nếu không có cái gì đó trong bức tranh cản mày lại.”



“Ồ?” Charlie tò mò. Vậy hlà Manfed biết về mảng tối đằng sau vai nhà vua – cái người, hay vật, ngăn cản không cho Charlie đi vô bức tranh.



“Trò có bao giờ nghe được gì từ bức tranh đó chưa, Charlie?” Giọng Manfred trở nên mềm mỏng và đầy sức thuyết phục, và Charlie thấy mình đáp lại sự nhẹ nhàng bất ngờ trong giọng nói vốn thường lạnh lùng đó.



“Có, em nghe thấy tiếng cây rung, tiếng ngựa, tiếng yên cương. Thỉnh thoảng có tiếng thép va vào nhau, và tiếng mưa.”



“Không bao giừo có giọng nói của nhà vua?”



“Không, không bao giờ.”



Manfred lại gần và đứng phía bên bàn đối diện Charlie. Chống hai tay xuống cạnh bàn, hắn cúi sát gần Charlie và hỏi:



“Trò có biết tại sao trò không thể nghe tiếng nhà vua không, Charlie?”



“Vì cai mảng tối.” Charlie lặng lẽ đáp.



“Hơn cả một mảng tối, Charlei. Đó là cái bóng của tổ tiên ta, ngài Borlath, con trai cả của nhà vua, và, Charliee, ngài đã trở lại!”



“Hả?” Charlie ngồi thẳng lên. “Ý thầy là gì?” Một cơn sợ hãi dội lên người nó.



“Ông cố của tao đã tiến hành một cuộc thí nghiệm thú vị nhất. Ông ấy được các bà cô của mày giúp đỡ, và dĩ nhiên cả tao cũng giúp. Phe này tìm thấy con ngựa của ngài Borlath, mày biết đấy, và quan trọng nhất là trái tim của ngài.”



“Trái tim Borlath?” Charlie nín thở.



“Tim của ngài.” Charlie có thể thấy nhữnc làn gân xanh đậm nổi lên trên mí mắt của kẻ thôi miên. “Nó nằm trong một cái tráp bên dưới một bia mộ khắc chữ B. Đúng ra mà nói thì Asa đã tìm ra trái tim. Thưng đó thích đào bới khi nó... không phải là nó... nếu mày hiểu ý tao.”



“Em hiểu.” Charlie tránh khỏi nhìn vào gương mặt lù lù của Manfred.



“Con ngựa đó đã sống dậy,” Manfred tiếp, “Trong phòng thí nghiệm của ông cố tao. Và cả trái tim của ngài cũng sống lại. Chúng trở nên hòa quyện vào nhau, như chúng vốn thế, và phóng xuyên qua tường... mày có thể trông thấy cái lỗ thủng từ bên ngoài, nếu mày nhìn lên, và nó đi theo mày.”



“Theo em?” Charlei nhảy dựng lên và cái ghế của nó đổ chỏng gọng xuống sàn.



“Tao nghĩ mày cần phải biết,” Manfrd xòe rộng đôi bàn tay hắn ra. “Bởi vì nếu mày bước chệch lối, thì con ngựa sẽ sẵn sàng chừng phạt này. Những móng guốc có thể gây nên những thương tích khủng khiếp.”



Charlie quyết không cho Manfred niềm thỏa mãn được thấy nó sợ. nó nhún vai và nói:



“Em nghĩ em phải đi ngủ đây.”



“Dĩ nhiên.”



Manfred ấn kệ sách mở bung ra và Charlie lẹ làng rời khỏi căn phòng. Nó vẫn cảm thấy ánh mắt soi mói của Manfred dõi theo khi nó bước vào tiền sảnh; và nó chạy như bay lên khu phòng ngủ chung mà không một lần ngoái nhìn lại.



Trên lầu bốn, Billy Raven nằm trên chiếc giường hẹp màu trắng ở cuối phòng bệnh xá. Đó là một căn phòng dài thượt, và không một chiếc giường nào trong số mười lăm chiếc giường kia có người nằm. Những cơn đau bụng quặn thắt đã dịu, nhưng Billy tin chắc rằng chúng sẽ quay trở lại nếu nó bép xép chút gì về mái nhà mới của nó. Nó đã vi phạm một lời tuyên thệ, bằng cách đưa cái nút áo đen cho Gabriel? Làm sao những lời tuyên thệ đó biết cơ chứ?



Bà giám thị ngó vào phòng và bảo Billy rằng ngày mai nó sẽ về lại Ngôi Nhà Bất Chợt.



“Cần một chút nghỉ ngơi tách xa bạn bạn mày,” bà ta nói bằng cái giọng lạnh gáy. “Như thế sẽ giúp mày giải quyết các thứ, Billy.”



Bà ta bỏ đi không buông cho nó một lời an ủi, hay thậm chí một ly sữa giảm đau cũng không.



Billy ngó mông lung vào bóng tối dày đặc, không thể ngủ đựoc. Một vầng trăng tròn trôi lơ lửng trên bầu trời, ánh sáng của nó rớt qua cửa sổ không rèm. Billy nghe có tiếng móng vuốt lóc cóc trene ván sàn đi về phía nó. Một giọng quen thuộc cất lên:



“Billy bệnh?”



“May Phúc,” billy thòng tay xuốnh và vuốt cái đầu nhăn nheo của con chó. Liệu có bị tính không, Billy tự hỏi, nếu nó kể cho một con chó nghe những điều mà nó không thể kể cho ái khác?



“Ngựa.” May Phúc rù rừ. “Trong vườn.”



“Ngưa?” Billy ngồi bật dậy.



Billy nhảy khỏi giường và chạy ra cửa sổ. Con ngựa đứng ngay phía dưới: không biến mất, lần này là bóng sinh vật lừng lững, nhưng rất thật. Bộ lông của nó là một mảng trắng loa lóa dưới ánh trăng, và mỗi sợi lông trên cái bờm và đuôi của nó sáng óng ánh như từng sợi bạc.



Bily mở cửa sổ ra và nhìn xuống con ngựa. Con ngựa bắt lấy ánh mắt của thằng bé và nói:



“Con,” nó bảo. “Con của ta.”



“Cứu con với,” Billy kêu lên.