Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình

Chương 11 : Một trăm vị hiệu trưởng

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Phải chi Charlie nhìn ra ngoài cửa sổ thì thể nào nó cũng mục kích được một cảnh tượng ngoạn mục. Bầu trời rợp bóng chim. Chúng yên lặng, nhưng thinh không ngăn vẳng tiếng đập cánh. Từ từ, những nhóm chim nhỏ bắt đầu tách ra khỏi bầy chim lớn. Chúng sà xuống đậu trên những bức trường, trên cây cối, trên hàng rào và trên những toà nhà. Đậu xuống rồi, chúng rúc đầu vào dưới cánh ngủ thiếp đi. Chẳng bao lâu sau chỉ còn mỗi bọn cú là thức.



Bên dưới, trong thành phố, những người tỉnh ngủ bị hút về cửa sổ. Họ được tưởng thưởng bằng một quang cảnh mà họ sẽ không bao giờ quên. Hàng hàng lớp lớp những sinh vật im lặng và nghiêm trang di chuyển qua thành phố. Dẫn đường là ba con mèo có bộ lông sáng rực rỡ, đến nỗi không khí xung quanh chúng sáng loá lên những gam màu dữ dội. Trên mỗi đường phố diễu qua, những con thú lần lượt tìm thấy nhà mình. Chúng phóng qua cửa sổ, chúng bước vào vườn, vào cũi, vào chuồng, và những người chứng kiến đang sửng sốt kia liền trút một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Vậy là cuối cùng thành phố không chết.



Tin tức truyền đi thần tốc. Đến giờ nghỉ giải lao đầu tiên thì ngay cả bọn trẻ trong Học viện Bloor cũng đã nghe nói về cuộc trở về vĩ đại. Tiếng cười rộn rã vang lên trong các căn-tin và các lớp học; nụ cười mỉm đã xuất hiện trên gương mặt của những đứa trước đó từng tuyên bố rằng mình sẽ không bao giờ mỉm cười nữa. Charlie thấy nhẹ cả người, mặc dù vài đứa học chung lớp vẫn nhìn nó với con mắt nghi ngờ.



Vấn đề này vừa được giải quyết xong, Charlie đã lại phải đối mặt ngay với một vấn đề khác. Cấm túc. Nó tha thiết muốn biết xem ngoại Maisis đã tan chưa, và nó cũng cảm thâấ mình nhất thiết phải về nhà để canh chừng mẹ.



Vào giờ ăn trưa, Charlie thấy Billy trong căn-tin, đang xơi một món đặc sản của bà bếp trưởng: thịt nhím nấu khoai tây.



“Đây không phải là thịt nhím thật,” Billy nghiêm trang. “Chẳng qua món này có những miếng giòn giòn rất ngon.”



Trong khi múc đồ ăn cho Charlie, bà bếp trưởng nhỏ nhẹ bảo, “Ta nghe nói những con thú đã trở về.”



Charlie gật đầu, “Những con mèo lửa đã đưa chúng về. Nhưng con bị cấm túc vào cuối tuần này, cho nên...”



“Cái gì?” Bà bếp trưởng hạ cái muôi xuống. “Sao lại thế được.” Trong bà ngạc nhiên ghê lắm.



Charlie toan hỏi tại sao, thì đằng sau nó, Gabiel kêu oang oác. “Tôi đói sắp chết rồi này. Đi thôi Charlie.”



Charlie cầm đĩa thịt nhím của nó lại bàn của Billy. Đôi ba phút sau có thêm Fidelio cà Gabriel tới nhập bọn.



“Các anh có biết chuyện gì xảy ra vào cuối tuần này không?” Billy hỏi những đứa kia.



“Anh bị cấm túc,” Charlie đáp.



“Không, em không có ý nói điều đó”. Billy ưỡn khuỳnh vai ra và nói với vẻ rất chi là quan trọng,



“Đó là Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng vào tối thứ Sau, và Đại Dạ Vũ vào thứ Bảy. Em nghe thấy tiến sĩ Bloor nhắc nhở bà giám thị như vậy đấy. Ông ấy sùng máu vì chuyện bà kia phạt cấm túc anh, Charlie à, vì ông ấy không muốn có bất kỳ đứa trẻ nào ở trong toàn nhà cả. Nhưng bà giám thị bảo rút lại lệnh phạt cấm túc là đi ngược với những nguyên tắc của bà ta. Tiến sĩ Bloor đùng đùng tức khí bỏ đi. Ông ấy bảo bà giám thị phải bắt anh tránh xa ra. Em nghĩ ông ta ám chỉ cả em nữa, bởi vì em sẽ ở đây nếu anh ở đây, phải không Charlie?”



Charlie cảm thấy hết hơi khi Billy cuối cùng đã ngừng nói.



Gabriel bảo, “Billy, tôi chưa bao giờ nghe em nói quá nhiều trong một hơi như vậy.”



Fidelio hỏi, “Thế Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng và Đại Dạ Vũ là gì?”



“À,” Billy lại bắt đầu. “Em đã tìm hiểu được đôi chút từ Manfred rồi.”



“Từ Manfred!” Bọn kia sửng sốt la lên.



Anh ta vốn rất thích được coi là quan trọng mà, vì vậy em mới nghĩ anh ta sẽ rất khoái được nói cho em biết. “Billy lại tiếp”, “Mà đúng như vậy thật. Anh ta bảo là cứ mười năm một lần lại diễn ra một cuộc tụ hội. Hiệu trưởng từ một trăm học viện khác đên đây để trao đổi thông tin về các học sinh của họ và về đủ mọi thứ.”



“Những học viện nào khác?” Charlie nói.



“Tất cả những học viện có trẻ con được ban phép thuật đến học,” Billy nói.



“Còn những học viện khác sao?” Charlie ngạc nhiên.



“Dĩ nhiên, có sao không!” Gabriel trầm ngâm. “Em cứ nghĩ đi, phải có đến hàng trăm những đứa trẻ như tụi mình ở khắp mọi nơi trên thế giới ấy chứ. Ý tôi là Vua Đỏ có mười người con, và nếu như tất cả họ đều có con cái, mà đã cách đây chín trăm năm thì...”



“Chao!” Miệng Charlie rớt xệ xuống. “Sao à em khờ quá?! Tất cả bọn chúng không thể dồn hết vào Học viện Bloor, đúng không? Không thể nào như thế được nếu họ sống ở Trung Quốc, hay châu Phi.”



“Hay thậm chí ở Scốt-lên, hay Ai-len,” Fidelio nói.



“Phùù! Thế mà em chả bao giờ nghĩ ra,” Charlie lắc đầu, thấy kỳ diệu quá chừng.



Chúng cắm đầu vào món thịt nhím, mỗi đứa đeo đuổi một ý nghĩ của riêng mình về những học viên khác, những đứa trẻ khác và những vị hiệu trưởng khác.



“Bằng mọi giá anh sẽ vào Tiệc Chiêu Đãi Một Trăm Vị Hiệu Trưởng đó” Charlie nói. “Có rất nhiều thứ anh muốn tìm hiểu.”



“Em cũng vậy,” Billy đồng tình.



Charlie nuốt nghiến miếng thịt nhím cuối cùng của mình và mỉm cười. Rốt cuộc, cuối tuần này cũng không đến nỗi tệ. Có lẽ mẹ nó đã tìm thấy cỏ roi ngựa, và khi về đến nhà thì ngoại Maisie đã trở lại là bà rồi.



Đám học trò của Học viện Bloor ra về mà không mảy may nghi ngờ rằng sắp có một sự kiện trọng đại diễn ra trong trường mình. Đến thứ Sáu, trần đại tiền sảnh đã sáng trưng với hàng ngàn cây đèn lồng. Gươm, cung, nỏ, mã tấu, đại đao, thương và nhiều lại vũ khí trông ấn tượng khác được lôi ra khỏi tủ, rương, hòm; rồi được đánh bóng đến độ sáng loá cả lên, và đem treo trên những bức tường ốp gỗ sồi, khiến người ta trông thấy phải nín thở vì khiếp sợ và thán phục. Một đội quân lao công đã lau chùi từng viên đá lát sàng láng bóng lên, và bọn trẻ nhận lệnh là chỉ được bước đi ở những mép tường mà thôi.



Trong sảnh tối, ánh sáng có hơi lu hơn một chút, mặc dùg có nhiều cái giá bằng đồng thau đã được gắn vào tường. Phải chăng chúng dùng để đỡ những cây đuốc thắp sáng? Và những vị khách quan trọng đó sẽ được phục vụ trong ánh lửa?



Thậm chí cả những cô phục vụ bữa tối tính vốn xởi lởi nhất cũng trở nên cáu bẳn. Khối công việc nặng nhọc phát sinh đang vắt kiện sức họ. Suôt cả ngày, giờ nào cũng thấy họ tất tả ngược xuôi trong các hành lang, bưng những khay đồ bằng bạc mà bao năm ròng chưa hề thấy ánh sáng ban ngày.
“Tôi nghĩ chúng ta nên đuổi cổ nó ra ngay đi, tiến sỹ Bloor”, ai đó đề nghị. “Tôi chắc chắn là nó muốn đi ngoài... à quên... muốn rời”.



“Ý hay đấy”, tiến sỹ Bloor tán thành. “Ai đó làm ơn...”



“Mà nhanh nhanh lên”, một giọng nữ khác chêm vào.



Một tiếng ghế cạ sàn. Có người chạy ù ra mở cửa. May Phúc thả một tiếng sủa cảm ơn rồi õng ẹo bước ra. Thêm tràng cười nữa.



May thay, con chó già vẫn để cái mùi hỡi ôi lại đằng sau, cái mũi của giáo sư Morvan đã hoàn toàn bị rối loạn, và ông ta chẳng phán gì thêm về mùi con trai nữa.



Khi tiếng cười đã lắng xuống, tiến sỹ Bloor ho khuc khặc rồi nói, “Tôi xin lỗi vì sự xao nhãng vừa rồi, nhưng bây giờ tôi muốn trở lại sự phát triển vô cùng quan trọng mà chúng tôi đã ngụ ý trong lời chào mừng quý vị ở đây tối nay.”



“Tất cả chúng tôi đang lắng nghe đây”, tiến sỹ Loth nói.



“Cảm ơn”, tiến sỹ Bloor chờ cho đến lúc im lặng như tờ rồi mới tiếp tục với sự phất khích dồn nén. “Trước tiên tôi phải nahwcs qua cho quý vị về lịch sử của một nhân vật mà ngay cả tôi cũng chưa bao giờ nghe nói đến, cho tới tuần vừa qua. Bá tước Harken Badlock”.



Im lặng, Rõ rằng chẳng ai biết gì về cái ông bá tước Harken Badlock này. Charlie chăm chú lắng nghe, nhận thức rằng mình sắp sử nghe được điều gì đó cực kỳ vô cùng quan trọng.



“Bá tước Harken Badlock mười tám tuổi khi đến Tây Ban Nha. Ngài bắt đầu tán tỉnh nàng Berenice xinh đẹp, con gái của hiệp sỹ Toledo. Vị bá tước trẻ này vốn là một thầy bùa, và rất nhanh chóng, nàng Berenice đã ngấm bùa mê của ngài. Họ sắp sửa cưới nhau thì...”



“Chắc chắn nàng Berenice cưới Vua Đỏ”, một giọng cắt ngang.



“Thật vậy, đóng thế”, tiến sỹ Bloor đồng ý. “Nhưng đã có một cuộc tranh chấp tay đôi giữa hai người đàn ông ấy, và bá tước Harken Badlock đã thua. Bởi vì, so kè tất cả yêu thuật, tất cả bùa mê ngài có thì đều không sánh được với phép thuật của Vua Đỏ, và thế là ngài đành để mất nàng Berenice yêu kiều”.



Khán thính giả của tiến sỹ Bloor hồi hộp chờ đợi câu chuyện tiếp diễn, đúng như nó buộc phải vậy.



“Như quý vị đã biết đấy, hoàng hậu Berenice chết khi đứa con thứ mười của bà là Amoret ra đời. Vua Đỏ, theo phong tục của dân tộc ngài, đã vào rừng để than khóc vợ. Những người con của ngài được để lại dưới sự chăm sóc của những đầy tớ – cho đến khi bá tước Harken Badlock xuất hiện. Đúng vậy, các bạn của tôi, ngài đến để bảo vệ những người con của Berenice yêu dấu. Ngài đã dạy họ tất cả những gì ngài biết, đã bảo vệ họ khỏi sự cướp bóc của những kẻ lạ, và rồi cưới người con gái cả của nhà Vua, Lilith.”



“Làm thế nào mà đột nhiên tất cả những điều đó được đem ra ánh sáng vậy, tiến sỹ Bloor?” Có ai đó hỏi.



Một khoảng dừng nghẹt thở. Da đầu của Charlie dựng tê rật rật và nó tưởng tượng tiến sỹ Bloor đã nhoài người ra trước trong tư thế đắc thắng. “Bởi vì tôi đã được nghe từ chính ngài bá tước”.



Một tiếng thở gấp vì không tin nổi đồng loạt vang lên trước khi tiến sỹ Bloor tiếp tục, “Tôi biết, thật khó mà tin rằng một người sống cách đây chín trăm năm lại sống cùng với chúng ta lần nữa. Nhưng đó là sự thật. Tôi hoàn toàn bị thuyết phục về điều đó.”



Át hết thảy dàn hợp xướng của những câu hỏi lẫn lời phản đối, lão Ezekiel già khú rít lên, “Ngài chỉ là cái bóng trong bức chân dung của Vua Đỏ, nhưng ai đó đã giải phóng Ngài ra rồi”.



Charlie bấu cánh tay Billy chặt đến mức thằng nhỏ khẽ thở hốc ra đau đớn. Trong ánh sáng mờ mở bên dưới gầm bàn, Charlie có thể thấy cặp mắt Billy mở to không kém gì mắt mình. Cái bóng, thằng nhỏ nói lớn. Charlie gật đầu.



Tiếng ồn đón nhật sự tiết lộ của lão Ezekiel rộ lên tới mức rúng động.



“Ai đã giải phóng ngài?”



“Bây giờ ngài ở đâu?”



Đó là hai câu hỏi được nghe rõ nhất, vượt lên hẳn những câu hỏi khác. Tiến sỹ Bloor nài nỉ mọi người im lặng và khi sự rúng động lắng xuống, ông ta đáp, “Ngài ở đâu ư? Ngài an toàn. Ngài đã thích nghi với thế kỷ này theo cách thần kỳ nhất. Ngài chỉ cần mười phút là học xong ngôn ngữ của chúng ta, và một khi đã học được rồi thì ngài có thể làm quen với những thể chế chính trị của chúng ta, hệ thống tài chánh, mốt quần ái, những thói quen của chúng ta, tóm lại là...”.



“Nhưng rồi, ngài vẫn là một thầy bùa”, lão Ezekiel chen tọt vào.



“Quả đúng như vậy, vâng” tiến sỹ Bloor nói. “Không may, ngài cần phải một chút tàn nhẫn khi tìm cho mình một ngôi nhà, và một nguồn thu nhập, nhưng những điều như thế chẳng thể lúc nào cũng tránh được”. Ông ta buông một tiếng cười ghê rợn. “Về điểm này tôi đành yêu cầu quý vị, các vị khách kính mến của tôi, không được nhắc lại một lời nào trong những lời tôi vừa nói với quý vị ở bên ngoài tòa nhà này. Chúng ta đã quen với việc giữ bí mật, đúng không? Chúng ta phải vậy thôi, không thì thế giới này sẽ tẩy chay chúng ta”.



Có tiếng rì rầm nhất trí, rồi giọng nói của tiến sỹ Loth sang sảng nhấn chìm những giọng khác. “Đó là ai?” Ông ta hỏi. “Ai đã giải phóng cái bóng, và giải phóng ra làm sao?”



“À”, tiến sỹ Bloor ngừng lại. “Bá tước không rõ lắm. Ngài quả quyết việc đó được thực hiện bằng một cái gương – gọi là Gương Thần của Amoret. Chúng tôi đã tìm thấy ngài trong tiền sảnh, giữa trận bão tuyết. Người giải thoát ngài đã lỉnh đi khỏi”.



“Ở đây chúng tôi nghĩ là Venetia”, Lão Ezekiel eo éo. “Bà ấy là người tinh thông nhất trong chúng tôi. Một kẻ ma mãnh nhất”, lão cười khặc khặc.



“Hừm, không phải,” bà cô Venetia nói một cách sưng sỉa.



“Vậy, quý vị... “ tiến sỹ Bloor bắt đầu.



“Đó là tôi”, một giọng cất lên. “Tôi đã làm đấy”.



“Cô?” Ngài hiệu trưởng nghe có vẻ kinh ngạc hết sức.



“Phải, chính tôi. Tôi đã tìm thấy Gương Thần của Amoret.”



Charlie đông cứng người. Mọi dây thần kinh trong cơ thể nó bắt đầu giật giật. Nó biết giọng nói đó. Đó là giọng nói của cái người mà nó không bao giờ ngờ tới.