Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình

Chương 12 : Sự thật choáng váng

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Âm thanh duy nhất trong phòng phát ra từ tiếng những bước chân bắt đầu từ gần cửa ra vào. Đanh và nhẹ, những âm thanh từ một phụ nữ mang giày cao gót chót vót.



Charlie sửng sốt, nó bắt đầu cảm thấy buồn nôn. Mặt Billy, trong bóng tối, trông xám ngoét lại sợ hãi. Đến điều này mà xảy ra được thì bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra.



Tiếng những bước chân tiến tới cái bục, và tiến sĩ Bloor mãi cuối cùng cũng mở miệng lại được, “Cô Chrystal, làm ơn bước lên đây và nói cho chúng tôi tất cả những gì đã xảy ra nào.”



“Cám ơn,” bốn tiếng bước chân nhẹ nhàng đi tới cái bàn trên cao.



“Ai đó cho cô ta ngồi với nào,” lão Ezekiel nói.



“Tôi thích đứng hơn,” cô Chrystal đáp.



“Cô sẽ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của... của cô chứ, cô thân mến,” tiến sĩ Bloor hỏi, “và cô đã giải phóng ngài bá tước như thế nào? Chúng tôi tất cả đều đang nôn nóng muốn biết chi tiết đây.”



Giật tỉnh khỏi cơn chết lặng, khán thính giả thét lên đồng ý.



“Đương nhiên rồi,” giọng cô Chrystal vẫn nhẹ nhàng và du dương, nhưng đã mất đi tất cả sự dịu ngọt. Giờ đây chỉ còn cái lạnh tanh đằng sau mỗi lời cô ta nói – một giọng nói vừa dễ vỡ vừa bạo liệt khiến Charlie rùng mình.



“Cách đây mười bốn năm, tôi là một cô gái hạnh phúc nhất trần đời. Tôi đang yêu và tôi nghĩ người đàn ông mình yêu cũng đáp lại những cảm xúc của mình. Nhưng anh ta đã chối bỏ tôi mà cưới một người khác. Trái tim tôi tan vỡ. Tôi tưởng mình sẽ chết chắc. Cuối cùng, tôi lấy một người tên là Matthew Tilpin. Chúng tôi có một đứa con trai, Joshua.”



Đến đây Charlie suýt bật kêu. Billy cẩn thận ụp một bàn tay vào cái miệng há ra của Charlie.



“Không lâu sau khi Joshua ra đời,” cô Chrystal tiếp, “chồng tôi đã bỏ rơi mẹ con tôi. Anh ta bảo anh ta sợ đứa con của chúng tôi. Mọi thứ đều dính hút vào Joshua, quý vị biết đấy. Đất, bụi, lông chim, côn trùng, mẩu giấy, và hễ ta chạm vào đôi bàn tay nhỏ xíu của thằng bé thì chúng sẽ níu chặt lấy. Thật khó mà rút ra được. Matthew bảo rằng nếu anh ta mà ở lại thì một ngày nào đó đứa bé sẽ bắt anh ta phải làm điều gì đó rất khủng khiếp. Anh ta đã cảm thấy Joshua đang bẻ cong ý chí của mình.”



“Mẹ tôi vẫn luôn bảo rằng chúng tôi là hậu duệ của Vua Đỏ,” cô Chrystal tiếp tục, “và tôi cũng đã thực hiện thành công một số phép thuật ngay từ hồi còn nhỏ. Nhưng phép phiếc chả được tích sự gì trong những việc dính tới trái tim, vì vậy tôi thà vứt bỏ nó đi còn hơn. Và rồi, vào Giáng sinh năm ngoái, ông chú của tôi chết, để lại cho tôi một rương đầy ụ giấy tờ. Một số đã được cất giữ trong gia đình tôi suốt chín trăm năm. Rất nhiều cái không thể nào đọc được, nhưng rồi tôi đã khám phá rằng chúng tôi là con cháu của chính Lilith, con gái cả của Vua Đỏ, và chồng bà, bá tước Harken Badlock.



Tất cả một trăm vị hiệu trưởng nhất tề thốt lên kinh ngạc, nhưng cô Chrystal vẫn phăm phăm, hầu như không thở lấy hơi. “Trong số những giấy tờ đó có một tấm bản đồ, trong tình trạng còn nguyên vẹn, nhưng rất, rất nhỏ. Quý vị không thể tin nổi nó... à... nó nhỏ thế nào đâu. Chắc hẳn nó đã bị người ta bỏ qua, không được chú ý đến suốt nhiều thế hệ. Tôi chịu, không biết là ai đã vẽ nó – có lẽ chính bá tước cũng nên. Tôi phải hỏi ngài mới được, “cô ta bật cười nhẹ. “Bản đồ chỉ cho tôi biết nơi tôi có thể tìm thấy gương thần của Amoret. Đó là tấm gương có thể đưa ngài bá tước trở lại thế giới này. Tôi chỉ việc đem nó tới đứng trước bức chân dung Vua Đỏ, để cho ánh sáng phản chiếu xuống cái bóng đằng sau ngài và,” cô ta dừng lại, “và tôi đã làm đúng như thế – và nó đã linh nghiệm. Ngài bá tước đã trở lại!” Khi nói những lời cuối cùng đó, giọng cô Chrystal vỡ vụn ra bởi niềm phấn khích ngây ngất.



“Cho một ly nước,” tiến sĩ Bloor phán.



“Ghế đây,” ai đó đẩy một cái ghế qua sàn nhà.



Tiếng chuyện trò rôm rả chợt bùng lên trong đám khách khứa. Nếu Charlie và Billy muốn chuyển đổi vị trí của chúng thì hẳn lúc này đúng là thời điểm để xê dịch, nhưng Charlie điếng người đến nỗi chẳng cựa quậy gì được.



Cô Chrystal vẫn chưa xong bài nói với thính giả của mình. “Tôi còn một điều nữa cần nói,” cô ta thông báo. “Con trai tôi, Joshua, rất hùng mạnh. Giống như Charlie Bone, nó mang dòng máu của hai thầy pháp chạy trong huyết quản. Nếu cần khống chế Charlie thì chính Joshua sẽ có thể làm được điều đó. Còn về vấn đề cha của Charlie, ngài bá tước cam đoan rằng hắn sẽ không bao giờ trở lại được nữa.” Cô ta buông ra một tiếng cười khô khốc, “Vâng, đúng vậy, bá tước đảm bảo Lyell Bone sẽ biệt tăm, biệt tích, mất dạng mãi mãi.”



Sau một quãng im lặng ngắn, một giọng phía trên đầu Charlie hỏi, “Thưa cô Chrystal, tôi muốn hỏi cô một câu.” Charlie có cảm giác như giọng nói này là của người đàn ông đội khăn xếp. “Làm ơn cho tôi biết tên của người đàn ông đã từ chối cô?”



“Ông nghĩ đó là ai chứ?” Cô ta lạnh lùng. “Đó là Lyell Bone.”



Charlie giật nảy mình đến nỗi Billy phải túm lấy cánh tay nó.



“Tụi mình phải ra khỏi đây mau,” Charlie thì thào.



Giờ thì sảnh ăn tối huyên náo như ong vỡ tổ, cú bò chối chết ra đến cuối bàn của hai thằng con trai không bị phát giác. Những chiếc ghế bắt đầu rít lên. Người ta đứng dậy và di chuyển. Những chiếc xe đẩy lại tiến vào và hai đứa nó có thể nghe thấy tiếng tách sứ kêu lạch cạch.



“Còn cà phê nữa, tất cả mọi người!” Tiến sĩ Bloor hét lớn. “Xin mời uống cà phê và bánh tráng miệng Thổ Nhĩ Kỳ. Làm ơn ngồi xuống ghế của quý vị thêm vài phút nữa.”



“Làm sao tụi mình ra khỏi đây bây giờ?” Billy lầm thầm.



Charlie nhún vai vô vọng. Những cửa ra vào cách xa các dãy bàn ít nhất phải hai mét. Cho dù chúng có bò thì thể nào cũng có người sẽ tình cờ thấy chúng. Nó nảy ra một ý. Hy vọng những người phục vụ sẽ đẩy xe đến đằng cuối bàn; nó chờ, ngay ngoài tầm duỗi của cặp chân cuối cùng.



Hai chiếc xe đẩy lăn đến gần, mỗi chiếc kè một bên bàn. Vận hết sức có thể, Charlie “diễn kịch câm” điệu bộ bò lên tầng thấp nhất của xe đẩy. Billy hiểu ra và gật đầu.



Cuối cùng hai người phục vụ đã ra đến đầu mút cái bàn. Nhìn lần cuối vào gương mặt lo âu của Billy, Charlie cười động viên thằng bé rồi bò xuống dưới tấm khăn màu đỏ phủ trùm một trong những chiếc xe đẩy. Kệ thấp lúc này trống trơn và anh bồi đang mải lo phục vụ cà phê. Nằm rúc còng queo trên kệ, Charlie nhận thấy tấm khăn trải đỏ không trùm kín được mình. Thầm khấn trong lòng, nó vẫn nằm im re trong khi chiếc xe đẩy lăn chậm rãi đến đầu đằng kia phòng dạ tiệc. Ngay khi họ an toàn đi qua cánh cửa xoay, người phục vụ dừng lại và bắt đầu cằn nhằn, “Cái khỉ...?” Anh ta nhìn xuống tấm vải và thấy Charlie.



“Í ồ, một thằng nhóc!” Anh bồi ồ lên, đó là một thanh niên trẻ có gương mặt hơi nhọn. “Nhóc làm gì ở đây vậy?”



“Em bị cấm túc, và em chán quá,” Charlie nói, hy vọng anh này là người biết thông cảm.



Anh thanh niên cười to. “(Anh thấy nhóc không chán mới lạ). Nào, cảm phiền ra khỏi xe đẩy của anh đi? Lưng anh đây rệu rã vì bao thứ ác mộng rồi.”



“Anh làm ơn đưa em đi xa xa một chút đi,” Charlie năn nỉ, “chỉ qua khỏi khu nhà bếp thôi mà.”



“Giỡn hả nhóc. Anh mày đã làm việc suốt từ sáu giờ sáng đến giờ.”



“Thế thì qua khỏi nhà bếp xanh lá cây cũng được ạ,” Charlie nài thêm. “Em không muốn bị bà Weedon bắt.”



“A, hiểu rồi. Thôi được, bám chắc vào.”




“Tùy ông. Đi đi, các trò,” Manfred xua hai thằng nhỏ xuống hành lang. Khi tất cả xuống tới tiền sảnh rồi, hắn khoá cánh cửa cổ xưa sau lưng lại.



“Thầy nhốt thầy Pilgrim ngoài đó rồi,” Charlie nói.



“Trong chứ,” Manfred chỉnh lại. “Khoá lão trong ấy là để tốt cho lão. Lão không thể chịu nổi đám đông mà.” Hắn hếch cái cổ gầy ngẳng ra và trừng trừng nhìn Charlie. “Cởi áo khoác ra rồi về phòng ngủ chung của mày ngay.”



Charlie không sợ đôi mắt thôi miên đen thùi của Manfred. Nó táo tợn nhìn trở lại và chính Manfred là kẻ phải quay mặt đi. Hắn đã mất quyền phép, Charlie nghĩ. Nhưng bây giờ có cái gì đó khang khác... Đó là cái gì nhỉ?



Manfred thọc hai tay vào túi quần và hùng hục bước đi khỏi.



Trở về phòng ngủ chung, Charlie và Billy ngồi trên giường và chờ đợi. Bụng chúng bắt đầu sôi ục ục. Còn cả tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ ăn trưa. Charlie không nghĩ mình có thể cầm cự được chút nào nữa nếu không có miếng gì ăn đỡ. Nó vừa quyết định tới chỗ bà bếp trưởng thì kẻ đưa tin của bà xuất hiện.



Mấy tiếng chó sủa bên ngoài cửa thông báo May Phúc tới.



“Đồ ăn!” Billy bay chíu khỏi giường. “May Phúc nói đã có thức ăn ở căn-tin.” Nó mở cửa và vỗ vỗ cái đầu nhăn nhúm của con chó già. “Cảm ơn nha, May Phúc.”



Trong căn-tin, hai đứa thấy một đống bánh mì kẹp để sẵn trên bàn. Chúng nghe thấy tiếng bà bếp trưởng ra lệnh trong nhà bếp. Xem ra nơi này lại đang náo động rung chuyển lần nữa, với hơn một trăm suất ăn trưa đặc sản cần chuẩn bị để dọn vào phòng ăn. Khi Charlie và Billy ăn xong phần bánh của mình, chúng dòm vào nhà bếp, hy vọng ít nhất cũng sẽ được một cái bánh bích quy sô-cô-la.



“Trong trạn kia kìa,” bà bếp trưởng chỉ tay nói. Mặt bà đỏ phừng phừng, chiếc tạp dề lem luốc những vệt vàng và nâu. “À này, Charlie, con lấy giỏ xách rồi ra cửa chính vào lúc mười hai rưỡi nhé. Ông cậu của con sẽ đến đón con đấy.”



“Ông cậu Paton? Sao ông ấy đi được. Ông ấy không bao giờ...”



“Không được cũng phải được thôi,” bà bếp trưởng thở phù phù. “Chả ai rảnh mà đi cả. Ta nghe báo là tất cả đã thu xếp xong rồi. Nào, đi đi!”



Chộp vội mấy thanh sô-cô-la của mình xong, hai thằng bé lủi ra. Charlie nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Mười hai giờ hai mươi. Nó còn mười phút để gói ghém đồ đạc và đi ra cổng chính.



“Em có chắc là em không muốn về với anh không?” Charlie hỏi khi chúng chạy lên tới phòng ngủ chung.



“Em muốn xem những quý bà diện đầm dạ hội,” Billy nói. “Để sau đó còn kể lại cho tất cả các anh chị nghe.” Thằng nhỏ không nói thêm rằng nó còn muốn tưởng tượng một trong những quý bà khiêu vũ xinh đẹp đó là mẹ nó.



Lão Weedon đang chờ ở tiền sảnh khi Charlie ôm giỏ xách chạy rầm rầm xuống cầu thang. Còn đúng một phút nữa để ra tới cổng.



“Suýt nữa thì không xong hả, Charlie Bone?” Lão Weedon có kiểu nói kháy khiến Charlie lúc nào cũng muốn độp lại câu gì đó vô lễ. Nhưng nó hơi chợn cái lão tạp vụ đầu trọc râu ria xồm xoàm này. Nếu bây giờ mà nói gì đó hớ hênh thì coi chừng lão Weedon nhốt nó vào phòng chứa đồ, hoặc tệ hơn nữa.



“Cảm ơn,” Charlie rặn ra nói khi lão tạp vụ to bè rút những cái chốt và mở khoá cửa ra.



“Cửa chưa mở hay sao ấy nhỉ?” Lão Weedon trêu chọc.



“Chưa, thưa ngài.”



Lão Weedon mở hi hí một cánh cửa. Charlie thót mình lách qua khoảng hở tí ti ấy và chạy băng qua mảnh sân gạch. Nó nhảy tưng tưng từ cầu thang xuống quảng trường rải sỏi, suýt nữa thì ngã chúi nhủi ở bậc thang cuối cùng. Nó quá sung sướng khi thấy chiếc xe hơi của Ông cậu Paton đậu ở đầu quảng trường.



Ông cậu Paton không nghe thấy tiếng gọi hồ hởi của Charlie. Ông đeo kính râm và đang mê mải thả hồn vào tờ báo đặt trên đùi.



“Ông cậu Paton!” Charlie giật mạnh cánh cửa xe và chui tọt vào ghế, “Con đây.”



Ông cậu Paton nhìn lên. “À, đây rồi,” ông mỉm với Charlie một nụ cười mờ nhạt.



“Mọi thứ đều ổn chứ ạ? Ý con là ngoại Maisie. Ngọai có còn... còn...?”



“Không có gì thay đổi, ta e là vậy,” Ông cậu Paton thở dài.



“Con xin lỗi làm ông phải đi ra ngoài vào ban ngày. Ông đã gây ra tai nạn nào chưa?”



“Đến giờ thì chưa,” Ông cậu Paton rồ máy. Ông dường như đang ở tận đẩu tận đâu.



“Ông có khỏe không, Ông cậu?” Charlie hỏi.



“Ta á? Ừ, khỏe. Chỉ là... ờ, ta lo lắng cho mẹ mày đó, Charlie.”



“Sao ạ?” Charlie hoảng hồn.



“Mẹ mày sẽ đi dự Đại Dạ Vũ.”



“Mẹ?” Charlie không thể tin nổi. “Làm sao mà được? Họ đời nào cho mẹ con đi. Mà đi với ai? Mẹ con ấy hả? Không đời nào?”



“Hờ, có thể chứ.” Ông cậu Paton dận bàn chân xuống và họ chồm lên con đường sỏi, phóng ra khỏi quảng trường.