Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình
Chương 3 : Muông thú biến mất
Ngày đăng: 15:22 19/04/20
Tiếng chuông trầm đục vang lên từ tháp đồng hồ nhà thờ lớn, lan dội khắp thành phố, và chú bé trên đồi hạ cánh tay xuống.
“Một giờ đúng.” Chú thở hắt ra một cái và ngáp. “Thôi, vậy đủ rồi.”
Một đám bông tuyết trắng tan chảy trôi xa khỏi ngọn đồi. Dần dần cơn bão dịu hẳn. Vài phút sau, bầu trời đã là một bức màn nhung đen tuyền, trong vắt, với muôn triệu vì sao lấm tấm.
Tancred nghẹo đầu ngó xuống đồi và ghi nhận kết quả công việc của mình: những mái nhà trắng xóa, những đường phố thinh lặng ngập tuyết, và lưới điện giăng trên thành phố trông tựa như một lưới mạng nhện lấp lánh.
“Lần thử đầu tiên thế cũng không tồi,” Tancred phấn khởi nói. Chú lắc ống tay áo, vài bông tuyết còn sót lại bay ra và đậu xuống đôi dép lê của chú. Vài giây sau chúng tan biến.
Tancred ngạc nhiên nhận ra mình đang mang dép lê. Chắc hẳn chú đã nửa tỉnh nửa mê lúc đi theo những con mèo. Thậm chí chú còn không cảm nhận được trời lạnh nữa. Giờ đây, tự dưng, chú rét run cầm cập. Trong khi chạy ngược lên con đường hẹp, thỉnh thoảng chú lại nhảy cẫng lên không và đập hai bàn chân vào nhau đánh “chát”, hài lòng quá chừng. Đó là thói quen chú mới hình thành dạo gần đây và nó thường khiến cho bọn bạn chú cười ngất.
Đến lúc chú về được tới ngôi nhà ba tầng nằm tách biệt của mình, tiếng ngáy như sấm rền của ông bố đã réo gầm như núi lửa sôi. Cả nhà Torsson đều là người điều khiển thời tiết và Tancred nóng lòng muốn được đàm đạo với ba mình về thời tiết quá chừng.
“Mình không biết ba đã bao giờ thử làm thế chưa nhỉ?” Tancred lẩm nhẩm một mình khi bước vào nhà. Chú dậm dậm chân vào tấm thảm chùi chân. “Phải cho Sander và Charlie biết mới được,” chú lẩm bẩm.
“Cho chúng biết cái gì?” Bà Torsson, không sao ngủ được, đang pha trà trong bếp.
“Về tuyết ạ,” Tancred đáp.
“Ớ. Thì ra là con à? Thảo nào mẹ đã thắc mắc không biết con đi đâu.” Bà Torsson vốn đã quen với cách hành xử khác thường của con trai. Nam nhi thì phải làm điều nam nhi cần làm, chồng bà luôn luôn nói với bà như vậy, nhất là khi có việc liên quan tới thời tiết.
“Phùù! Ba mình ngáy om sòm nhỉ,” Tancred giũ chiếc áo chùng ướt nhẹp ra và treo lên đằng sau cánh cửa.
Bà Torsson đãng trí cho tới muỗng đường thứ ba vào tách trà của mình, sau đó rót một tách cho Tancred. Chú kéo ghế ngồi đối diện với mẹ và uống ừng ực. Tạo tuyết quả là một công việc vất vả, hao tổn sức lực. Chú hy vọng trong thời gian sắp tới sẽ không bị gọi đi làm như thế một lần nữa.
“Những con mèo lửa đã đến đây,” chú giải thích cho mẹ nghe. “Chúng muốn có tuyết – mẹ đừng hỏi con tại sao. Nhưng con cảm thấy có điều gì đó bất ổn đang xảy ra cho thành phố dưới kia.”
“Ba con cũng bảo là ba linh cảm có điềm gở. Ông ấy cứ thắc thỏm ngủ không yên.” Bà Torsson lắc đầu. “Đôi khi mẹ tự hỏi hay là chúng ta dọn nhà khỏi đây đi. Con có thể học một trường bình thường và...”
“Không được,” Tancred phản đối kịch liệt. “Con phải ở nơi này, hệt như Charlie, Sander và Gabriel và... và Emma vậy. Vua Đỏ đã sống ở đây và chúng con là lũ con cháu của ngài. Chúng con phải liên kết với nhau. Mẹ biết điều đó mà, mẹ.”
“Ừ phải, Tancred.” Mẹ chú thở dài.
Bà Torsson không phải là bà mẹ duy nhất ước gì mình và gia đình mình có thể dứt bỏ được thành phố này. Mẹ của Charlie Bone cũng luôn ao ước thoát khỏi cuộc sống u phiền trong căn nhà không thuộc về mình, tại vùng đất luôn vang vọng tiếng thì thầm của quá khứ tang thương, nơi con trai cô bị buộc phải học trong ngôi trường do một người đàn ông ác tâm điều hành.
Nhưng cô Amy Bone không có tiền và không có nơi nào mà đi. Vả lại, ở đây, Charlie hạnh phúc tràn trề. Dường như chẳng có gì hạ gục được nó – một thằng bé lạc quan khác thường. Không gì lay chuyển được niềm tin sắt đá của nó rằng ba nó vẫn còn sống và rằng một ngày nào đó nó sẽ tìm thấy cha mình. Trong khi cô Amy đã từ bỏ niềm hy vọng đó từ lâu.
Lúc ấy là tám giờ sáng thứ Bảy. Ngoài mẹ Charlie ra, tất cả mọi người sống trong nhà số 9 đường Filbert vẫn còn đang ngủ. Kể cả mẹ của cô Amy, bà Maisie, cũng đang ngáy nhè nhẹ khi cô Amy nhón gót đi qua phòng bà.
Sau bữa điểm tâm vội vàng, cô Amy rời nhà, bắt đầu quãng đường đi bộ mười phút tới làm việc cho cửa hàng bán rau quả. Không một dấu tích nào của trận mưa tuyết đêm qua còn đọng lại. Không khí lạnh giá và vỉa hè vẫn ướt át, nhưng hẳn là không ai có thể đóan được, chỉ vài giờ trước thôi, một lớp tuyết dày cả tấc đã bao phủ toàn thành phố.
“Cô Bone! Cô Bone ơi!”
Cô Amy quay phắt lại. Tiếng gọi là từ thằng bé ở phía bên kia đường. Đó có phải là...? Lẽ nào lại đúng vậy?
“Benjamin!” Cô Amy reo lên, chạy ngược trở lại về phía nhà số 9. “Cháu đấy à!”
Thằng bé ngó qua trái qua phải, rồi băng vù qua đường.
“Ôi, Benjamin, cô mừng quá, gặp lại cháu cô mừng quá.” Cô Amy ôm chầm lấy nó, chặt cứng. Trước đây cô không bao giờ vồ vập như vậy cả, khiến Benjamin đâm hơi sựng sựng.
“Cô khỏe..., è, khỏe chứ ạ, thưa cô Bone?” Nó hỏi, sự lúng túng và cơn ngạt thở khiến nó cà lăm. “Ý cháu là tất cả nhà đều khỏe phải không ạ?”
“Charlie khỏe,” cô Amy nói. “Nó vẫn đang ngủ, nhưng để cô mở cửa cháu vào cho nó ngạc nhiên nhé.” Cô chạy lên hết bậc cấp, vặn khóa cửa nhà số 9 và mở ra. “Cháu biết phòng nó đâu rồi đấy. Giờ cô phải đi gấp đây kẻo lại trễ làm mất. Cứ vào đi, vào đi.” Cô khẽ đẩy Benjamin vào nhà rồi đóng cửa lại đằng sau lưng thằng bé.
Benjamin ngó quanh quất hành lang vắng teo, hài lòng khi thấy chẳng có gì thay đổi. Nó là một thằng bé tóc hoe vàng, nhỏ con, trông lúc nào cũng có vẻ thiểu não. Vào lúc đó nó vẫn còn hơi say máy bay, nhưng nó không thể chờ nổi để gặp Charlie và Hạt Đậu, con chó mà nó đã để lại nhờ Charlie chăm sóc.
Benjamin ghé nhìn vào nhà bếp. Không có ổ chó. Không có tô chó. Dĩ nhiên, Hạt Đậu chắc chắn đang ngủ trong phòng Charlie.
“Dạ hiểu,” lời đáp ỉu xìu buột ra. Mặc dầu vậy, làm sao mà Billy có thể quên được một nơi lý thú như thế này cơ chứ?
Con chuột lại bắt đầu lít chít và tất cả họ rồng rắn quay trở lại nhà bếp để xem xem con chuột phải nói gì.
“Có tin gì về Hạt Đậu không?” Benjamin nhấp nhỏm. “Ủa, đó là con chuột nào thế.”
“Tên nó là Rembrandt,” Charlie trả lời. “Thể nào nó cũng sẽ có chuyện để kể cho chúng ta nghe.”
Rembrandt được đặt lên chính giữa bàn, và khi tất cả mọi người đều yên vị nơi chỗ ngồi của mình, Billy ngân nhẹ một tiếng giục giã con chuột. Rembrandt ngó quanh những vẻ mặt đang chờ đợi. Chú chàng là một con chuột hòa đồng và rõ ràng rất khoái được là trung tâm của sự chú ý. Với những tiếng chít chít nho nhỏ rồi ngưng, rồi lại gù gừ, líu ríu, nó bắt đầu câu chuyện của mình. Dần dần, những âm thanh nó phát ra theo một kiểu mà Charlie cũng mang máng hiểu được đó chính là lời nói.
Billy ngồi tì cằm vào hai cánh tay khoanh lại của nó, nhìn Rembrandt chằm chằm và chăm chú lắng nghe từng “lời” của con chuột. Khi rõ mười mươi là con chuột đã chít ra tiếng cuối cùng, Billy liền nhấc con chuột, đặt lên đùi mình. Con vật mệt đừ cuộn tròn mình lại và lăn ra ngủ.
“Thế nào, Billy,” Benjamin nôn nóng. “Nó nói gì vậy?”
“Có vài điều rất khó giải thích,” Billy bảo.
“Thì cứ nói đi,” Charlie thúc ép.
“Hừm... nó nói đêm qua có cái gì đó... hình như là... thức dậy. Và... và trái đất rùng mình.
“Chúng ta đâu có nhận thấy gì nhỉ?” Bà Onimous nhìn chồng.
“Chúng ta không phải là loài vật, cưng ơi,” ông đáp. “Làm sao mà nhận ra được?”
“Làm ơn để nó nói tiếp đi!” Benjamin rền rĩ.
Ngoảy mái tóc bóng mướt mượt của mình một cái, bà Onimous chĩa cái mũi rất dài về phía Benjamin. “Ta xin lỗi đã cắt ngang, xin lỗi,” bà nói hơi sẵng.
Benjamin hối hận cúi mặt xuống, nhưng rồi lại lẳng lặng than van, “Cháu chỉ muốn biết về con chó của cháu thôi mà.”
Billy hít một hơi và tiếp, “Ờm, Rembrandt nói rằng chúng, tức là nó, con trăn và Hạt Đậu, đã hoảng sợ thất kinh, và bản năng thúc bách chúng muốn đi tới... một nơi nào đó. Vì vậy Rembrandt đã lấy chìa khóa,” Billy ngừng lại. “Cháu nghĩ là nó nói rằng chìa khóa ở trong phòng ngủ của ông, ông Onimous ạ.”
“Đồ tiểu quỷ,” ông Onimous làu bàu.
“Và rồi nó mở một cánh cửa ra,” Billy mau mau kể tiếp, “thế là tất cả bọn chúng đi vào một đường hầm và... chúng đi xuyên qua lâu đài đổ nát thì thấy tất cả chuột với sóc với chim chóc, cùng tất cả mọi sinh vật khác sống ở đó đều đi hết luôn, và... và cái này nghe hơi khó, cháu nghĩ chúng đi xuống một rìa đá – nơi có con sông gầm rú – và đi qua một cây cầu.” Billy tháo mắt kiếng bị đọng hơi nước xuống. Nó chùi cặp kiếng vào ống tay áo rồi đeo lên trở lại. “Hãy tưởng tượng cảnh tất cả muông thú rầm rập đi qua một cây cầu.”
“Có lẽ vài con thì bơi,” Charlie gợi ý.
“Và có loài thì bay,” Emma thêm.
“Đúng vậy, chim bay.” Billy liếc lẹ qua bộ mặt quàu quạu của Benjamin và hấp tấp kể tiếp, “Sau đó một chút thì chúng tìm thấy nơi an toàn. Đó là nơi hiện giờ chúng đang ở: Hạt Đậu, con trăn xanh da trời, cả con vịt của chị nữa, em nghĩ vậy, Emma.”
“Ở đâu?” Benjamin xòe rộng hai bàn tay ra.
“Em mà biết á?” Billy đáp. Ý em là, Rembrandt không nói cho em biết bất cứ địa danh nào cả. Nó trở lại đây bởi vì nó muốn báo cho em biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng nó nghĩ những loài vật khác vẫn còn ở lại đó.”
Benjamin im đờ ra, khổ sở. Thật ra thì tất cả mọi người đều im lặng, cho đến khi Emma nói, “Tại sao chứ? Tại sao chúng lại muốn ở lại nơi đó chứ?”
Billy vuốt ve bộ lông bóng loáng của con chuột. “Em nghĩ Rembrandt đã cố giải thích rằng nơi đó, giống như là... nơi lánh nạn vậy.”
“Nơi lánh nạn? Ta chưa từng nghe nói về một nơi như thế trong thành phố bao giờ,” bà Onimous bảo.
“Nhưng nó không ở trong thành phố. Mà ở ngoài xa, tít bên kia dòng sông.” Billy ngó sượt qua đầu mọi người tới một thiên đường tưởng tượng, trôi bềnh bồng đâu đó trong không gian.
“Billy, bạn nhỏ à, chẳng có gì ở bên kia sông hết,” ông Onimous nói. “Chỉ có đồng hoang thôi.”
Một tiếng thét tuyệt vọng vang lên, Benjamin gục mặt vào hai bàn tay.”