Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình

Chương 4 : Cô bé áo choàng màu nắng

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


Đồng hoang. Cái từ đó cứ lởn vởn trong tâm trí cả đám nhưng không, à chưa đứa nào dám nói tuột ra. Đến lúc này thành phố đã đông nghẹt người đi mua sắm ngày thứ Bảy và khi bốn đứa rời quán Cà Phê Thú Kiểng, chúng liền hướng ngay về con phố tĩnh lặng dẫn tới tiệm sách cô Ingledew.



Mỗi cuối tuần Emma đều phụ trông coi tiệm sách, cũng là nơi con bé sống với dì Julia của nó – một người dì rất thông minh và tốt bụng. Hầu như tất cả những sách hiếm và cổ trên kệ sách của mình dì đều đã đọc qua, còn kiến thức của dì về thành phố và về quá khứ của thành phố thì thuộc loại uyên thâm hiếm có. Rất có thể dì sẽ biết về cánh đồng hoang bên kia sông. Cũng rất có khả năng là Ông cậu Paton của Charlie đang ở tiệm sách. Thế cho nên, thậm chí không bàn một lời, lũ trẻ cùng bị hút về phía hai người có thể nói cho chúng biết điều gì đã xảy ra với đám muông thú.



Kiệt sức sau cuộc hành trình dài của mình, Rembrandt đã rơi vào giấc ngủ mê mụ. Nó nằm tròn vo trong túi quần Billy, chẳng thể chít thêm được một tiếng nào nữa.



Khi cả bọn kéo gần đến tiệm sách, cái ồn ào của thành phố lùi xa dần và đột nhiên chúng nhận thấy có gì đó không ổn. Chẳng đứa nào có thể xác định được đó là cái gì, nhưng không hiểu sao cả bọn cứ cảm thấy hốt ha hốt hoảng.



“Ở đây ớn như có ma ám,” Benjamin nhăn mũi. “Hồi nào có bao giờ như vậy đâu.”



“Không có chim chóc,” Emma bảo. “Bọn chúng đi hết cả rồi.”



Cả đám đến được quảng trường rộng rải sỏi ở đằng trước nhà thờ lớn, nơi mà thường ngày vẫn thấy ít nhất một tá quạ gáy xám đi nghênh ngang trên lớp sỏi, hoặc quang quác rầm rĩ trên nóc nhà. Hôm nay thậm chí đến một con chim bồ câu cũng chẳng có.



“Không có mèo luôn,” Charlie nhận xét. “Mọi khi lúc nào cũng có một con mèo bắt chuột quanh nhà thờ lớn mà.”



“Cả chó cũng không,” Benjamin xoay tròn trên gót chân, trố mắt nhìn quanh quảng trường. “Thứ Bảy người ta hay dắt chó đến đây. Vậy chứ, chúng đâu hết rồi?”



Billy nói toẹt ra cái từ đang ở trong đầu cả đám. “Trong đồng hoang.”



Charlie bất chợt có cảm giác như kiến bò đằng sau gáy mình. Có ai đó đang nhìn bọn chúng. Nó quay phắt lại, vừa kịp thấy một bóng hình màu vàng biến vụt vào một ngõ hẻm. “Tụi mình đang bị theo dõi,” nó lẳng lặng nói. “Mình vừa mới thấy một cái gì màu vàng lồng phồng, ở đằng kia kìa.”



Không đứa nào dám nhìn theo tay Charlie chỉ. Cả đám vắt giò chạy tọt vào tiệm sách như thể có một con quái vật đang lần theo dấu. Charlie chạy theo bọn bạn, loạng choạng xuống những bậc tam cấp dẫn vào trong tiệm và va sầm vào Benjamin, thằng này hoảng vía thét lên một tiếng cảnh báo.



Giật mình bởi sự náo loạn đột ngột, Ông cậu Paton Yewbeam, đang đứng chông chênh trên đỉnh chiếc thang gấp, bỗng lắc lư thật nguy hiểm và suýt nữa thì làm tuột mất chồng sách ông ôm đầy ứ trong vòng tay, đang định chất lên cái kệ cao.



“Paton, coi chừng!” Cô Julia Ingledew chạy bắn qua phòng đến giữ cái thang lại.



“Lại vụ gì thế, bọn nhỏ?” Ông cậu Paton đặt đống sách lên kệ và leo xuống thang.



Tất cả bốn đứa trẻ thi nhau nói một lúc, khiến Ông cậu Paton phải bịt tai lại và hét lên, “Quỷ tha ma bắt, từng đứa một thôi.”



“Chúng ta nghỉ giải lao đi,” cô Ingledew đề nghị.



Tất cả liền dồn sang phòng khách nhỏ xíu đằng sau tiệm sách, và torng khi bọn con trai ngồi chen chúc cùng với sách trên ghế đẩu với ghế sofa, thì Emma thuật lại buổi sáng của mình, từ lúc phát hiện chuồng vịt của Nancy trống lốc đến lúc thấy vắng hẳn bóng chim, bóng thú trong thành phố.



“Ta cũng đã biết là có cái gì đó sai lệch,” Ông cậu Paton trầm ngâm. “Nhưng ta không tài nào nhận ra được cái sai lệch ấy là gì. Đeo mắt kính đen vào là ta hay để vuột mất chi tiết lắm.”



“Nhưng Ông cậu có biết gì về đồng hoang bên kia sông không?” Charlie hỏi ông cậu nó.



“Ta chưa bao giờ liều đi xa đến thế,” Ông cậu Paton nói với vẻ hối tiếc. “Mà tại sao thú vật lại chọn đi tới đó, ta hoàn toàn không biết.”



“Chúng sợ hãi,” Charlie nói.



“Nhưng tụi con không biết tại sao mà chúng sợ,” Emma tiếp.



“Biết chứ,” Billy xen vào. “Chẳng phải Rembrandt đã nói với tụi mình là có cái gì đó thức dậy và mặt đất rùng mình đó sao?”



“Cháu sẽ không bao giờ gặp lại Hạt Đậu nữa rồi,” Benjamin mếu máo. “Ôi, tại sao nó lại không thể chờ cháu vậy?”



Cô Ingledew nãy giờ vẫn lui cui dọn dẹp từng góc nhỏ trong căn phòng, bỗng dừng tay lại và nhìn xoáy vào Billy. “Rùng mình? Cháu bảo là rùng mình hả?” Cô hỏi Billy.



“Phải ạ, Rembrandt nói thế ạ,” Billy trả lời cô.



“À, em có giả thuyết gì về mặt đất chăng, Julia?” Ông cậu Paton ngồi xuống trở lại, kèm theo nụ cười.



Họ đợi cô Ingledew giải thích.



“Mọi người có thể cười nhạo tôi, nhưng mà tôi nói là có lý do cả đấy.” Cô cúi xuống bàn viết của mình và bắt đầu đút mớ báo chí vào ngăn kéo.



Sau một quãng thời gian chờ đợi bồn chồn ngắn ngủi, Charlie nằn nì, “Cô làm ơn nói cho tụi cháu nghe giả thuyết của cô đi, cô Ingledew. Tụi cháu sẽ không cười đâu mà.”



Cô Ingledew gạt mớ tóc dày màu hạt dẻ khỏi mặt và đứng thẳng lên. “Tốt lắm, nhưng cô chắc chắn cháu đã từng nghe nói về nó rồi, Charlie à.” Cô ngồi lên tay ghế của Ông cậu Paton. “Như các cháu biết đấy, Vua Đỏ, người mà tất cả các cháu là hậu duệ ấy – ngoại trừ cháu, dĩ nhiên rồi, Benjamin – ừm, khi hoàng hậu chết và nhà vua bỏ vào rừng than khóc một mình, thì mười người con của ngài đánh nhau liên miên, cho đến khi năm người trong số họ phải rời khỏi lâu đài mãi mãi. Nhưng cuộc chiến đó không hề chấm dứt, mà vẫn tiếp tục hàng nhiều thế kỷ, đúng vậy, đến tận nhiều thế kỷ sau.”
“Chúng cũng đến gặp em nữa,” Charlie nói, gần như với riêng mình thì đúng hơn. “Có lẽ chúng đã cố ngăn để cho người ta khỏi tìm ra cái gì đó, và nếu có tuyết thì sẽ đỡ hơn một chút, nhưng có vẻ như cuối cùng kẻ nào đó cũng đã lấy được một vật. Cái vật ấy nối kết thế giới của chúng ta với một thứ như là... vong hồn cổ xưa.” Charlie thở rít vào một hơi.



Hai anh lớn dòm sựng vào Charlie, vừa như bị hút hồn, vừa pha lẫn ngờ vực.



“Sao nữa,” Lysander giục.



“Ừm, khi việc đó xảy ra, mặt đất rùng mình. Ít nhất đó là điều mà con Rembrandt nói với Billy. Muông thú cảm nhận được cái rùng mình đó và tất cả bọn chúng hoảng sợ đến nỗi chạy trốn sạch.”



“Đi đâu?” Lysander hỏi dồn. “Con vẹt của anh đi luôn rồi và anh muốn nó trở lại. Anh cần nó.”



Charlie nhún vai chịu thua. “Rembrandt nói tất cả chúng đã băng qua sông. Nó đã trở về, nhưng giờ thì nó không thể nhớ nổi nó đã đi tới... tới nơi nào đó bằng cách nào.”



“Đồ chuột vô dụng,” Lysander gầm gừ.



Charlie thất vọng khi thấy một người cứng cỏi như Lysander mà lại quá phụ thuộc vào một con vẹt như vậy. Nó định lên tiếng bênh vực Rembrandt thì tiếng tù và đã rúc lên báo hiệu giờ giải lao kết thúc, và bọn con trai cắm đầu về lại học viện.



Trong lúc đám đông trẻ con chen chúc nhau qua cửa vườn, Charlie kinh ngạc thấy một dáng quen quen đang bước đi lẫn trong bọn chúng. Đó là mẹ của Benjamin, cô Brown.



“Mẹ của bạn em kìa, Charlie.” Tancred nhận xét. “Benjamin có học ở Học viện Bloor không?”



Charlie lắc đầu. “Không. Đáng ra nó phải nói cho em biết chứ. Cô ấy đang làm gì ở đây nhỉ?”



“Cô ấy là thám tử tư, vì vậy chắc chắn cô ấy đang điều tra gì đó,” Lysander nhận định. “Hây, có lẽ cô ấy đến để tìm hiểu vụ thú vật biến mất cũng nên. Bảo đảm người ta nghĩ là tại một đứa trong đám tụi mình.” Anh phá lên cười chua chát.



Cô Brown bất thình lình ngoái lại sau và bắt gặp ánh mắt của Charlie. Cô vội quay đi và bước qua cửa.



“Cô ấy không muốn tỏ ra là biết em,” Charlie nói vẻ nghi hoặc.



“Em nằm trong diện khả nghi, Charlie Bone,” Tancred nói với nụ cười giễu cợt. “Gặp lại em sau nhé, kẻ làm bốc hơi bọn thú.” Anh bay đuổi theo Lysander, lúc này đã sải bước đi đằng trước.



“Cái...” Charlie đứng há hốc mồm ra.



Tancred nói đùa thôi, dĩ nhiên, nhưng việc mẹ thằng bạn thân nhất của ta cố ý tránh né ta thì không phải là đùa rồi.



“Biết ngay mày là đứa cuối cùng mà,” Asa Pike, huynh trưởng, cười khẩy nhìn Charlie từ bên trong tiền sảnh. “Mười giây nữa là tao khóa...”



“KHÔNG!” Charlie phóng bay qua bậc cửa và dừng kít lại ngay bên cạnh Asa.



“Mày nghỉ Giáng sinh vui nhỉ?” Luôn có vẻ khinh miệt ẩn sau mọi lời nhận xét của Asa.



Charlie chọn cách lờ tịt sự miệt thị đó đi và đáp, “Tuyệt lắm, cảm ơn. Còn anh?”



Bộ mặt như con chồn của Asa co rúm lại. Nó vắt một mớ tóc mỡ nhờn nhợn màu cam ra sau tai và nói, “Đương nhiên. Xéo ngay không mày trễ giờ học bây giờ.”



Charlie hấp tấp băng qua tiền sảnh, bỏ mặc Asa đóng cửa vườn. Có cái gì đó bất thường trong hành vi của thằng huynh trưởng này. Hình như hắn sợ sệt và bất an. Asa là học sinh lớn nhất trong trường và đáng lý ra hắn phải là thủ lĩnh nam sinh, nhưng vì thi trượt tất cả các môn, hắn đành chịu chuyển chức đó vào tay Riley Burns, một kẻ hợm hĩnh, tự cho mình biết tuốt mọi sự trên đời và là một nhà vô địch điền kinh.



Phải chăng sự vụ nhục nhã đó giải thích cho nỗi hoảng hốt của Asa? Charlie không chắc. Và rồi một ý nghĩ loé lên trong đầu Charlie. Ai cũng biết Asa có thể thay đổi hình dạng. Mỗi khi trời sụp tối, hắn có thể trở thành một sinh vật giống như sói, lưng cong, mõm dài. Có lẽ, giống như bao con thú khác, hắn cũng đã cảm nhận được khi mặt đất rùng mình. Charlie định bụng sẽ quan sát thằng huynh trưởng trong giờ làm bài tập, khi chúng ngồi cùng bàn trong Phòng Nhà Vua.



Tối hôm đó, Charlie là đứa đầu tiên đi qua cánh cửa đôi màu đen vào Phòng Nhà Vua. Nó nhìn quanh căn phòng hình tròn, mái trần cao, với những bức tường cong dựng kín những kệ sách bọc da. Chỉ chừa lại không gian cho một bức tranh duy nhất: bức chân dung Vua Đỏ khổng lồ lồng khung mạ vàng.



Charlie thích ngồi chỗ mà nó có thể ngắm bức tranh, và nó vừa bày xong sách vở lên chiếc bàn tròn thì những đứa trẻ được ban phép thuật khác cũng lục tục kéo đến.



Đầu tiên là Joshua Tilpin, một thằng bé loắt choắt, mặt như mặt chuột, tai to và răng xộc xệch. Như thường lệ, người nó đính đầy nhóc bụi phấn, giấy, lá và cành khô. Không phải chỉ sinh từ tính như một thỏi nam châm thông thường, Joshua còn có khả năng thu hút được nhiều thứ khác nhau. Tiếp theo là chị em sinh đôi siêu năng, Idith và Inez, rồi tới Billy Raven len lén đi qua cửa. Khép nép đi về phía Charlie, Billy thì thào. “Em có điều muốn nói với anh.”



Nhưng Charlie hầu như không nghe thấy Billy nói gì. Nó đang mải nhìn chong chong vào bức chân dung nhà vua. Nó rành bức tranh này lắm. Nó vẫn thường ngắm nghía gương mặt đen, với những đường nứt mờ hay gặp ở các bức tranh cổ. Nhà vua đội vương miện vàng thanh mảnh và mặc áo chùng đỏ, những nếp gấp sắc nét trên áo sậm lại và xỉn màu năm tháng. Charlie luôn ước ao có ngày đi vào được bức tranh và rảo bước trong thế giới xa xôi của Vua Đỏ, nhưng luôn có gì đó ngăn cản nó. Một cái bóng đậm đứng sau nhà vua, một bóng hình bí hiểm khóa chặt mọi cố gắng của Charlie hầu tiếp xúc với tổ tiên mình. Nhưng bây giờ...



Mắt Charlie trợn căng lên. Choáng váng trong cơn sốc, nó túm chặt lấy cái lưng ghế. Cái bóng đã dịch chuyển. Cái bóng đó mờ thôi, nhưng Charlie biết rành bức tranh đến nỗi cái bóng rõ mồn một đối với nó. Trước đây cái bóng chỉ là một dải mù sương, đứng đằng sau nhà vua. Giờ thì hình như cái bóng đã lớn hơn và rõ hơn, như thể nó đã bước một bước tới trước.



“Cái bóng,” Charlie nín thở.



Chồm sát lại gần nó, Billy thì thào, “Em cũng định nói cho anh biết về cái bóng đó.”