Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình
Chương 8 : Bị kẹt trong tuyết
Ngày đăng: 15:22 19/04/20
Charlie đứng như trời trồng. Không dễ gì tháo chạy khi nó phải lỉnh kỉnh xách một cái lồng và một cái thùng các - tông lớn, lại phải chờ con vịt theo cho kịp. Chỉ còn một giải pháp duy nhất.
“Hạt đậu, cắn chúng!” Charlie ra lệnh.
Con chó bự không cần cổ động thêm. Chú ta xồ tới đám nhà Loom, sủa điên tiết. Nhưng kinh nghiệm huấn luyện bốn con chó săn của Albert và Alfred không dùng thì để làm gì! Albert tóm ngay lấy vòng cổ của Hạt Đậu và giật nó vào lề con hẻm, ở đó Alfred xích tịt con chó vào một cột đèn.
Tức lồng lộn, tiếng tru tréo của Hạt Đậu gầm lên đủ đánh thức cả thành phố, nhưng không có cảnh sát thân thiện nào xuất hiện và không ai ló ra khỏi cửa quán Cà Phê Thú Kiểng. Tuy nhiên vẹt Homer là một con chim hành động. Cậu chàng bổ nhào từ trên trời xuống và sục móng vuốt vào cái đầu loăn quăn của Dorcas.
“Cút! Xéo” Dorcas thét ầm.
Joshua túm lấy cổ Homer mà xiết. Đôi mắt xám của con vẹt trợn phồng lên. Nó bị nghẹt thở và quạt cánh, chân quơ quắp không khí khi bị Joshua lôi rị, bứt nó ra khỏi Dorcas và lắc nó lặt lẹo qua trái qua phải.
Con trăn rít lên một tiếng giận dữ khi cái lồng nhốt nó bị rơi bộp xuống, Charlie muốn thả trăn ra vô cùng, nhưng nó không thể nào liều để cho một sinh vật khác bị thương. Đặt cái thùng thỏ với chuột xuống cạnh lồng trăn, Charlie lao vào Joshua.
“Buông nó ra!” Charlie thét lên, cố gỡ những ngón tay của Joshua ra khỏi cổ con vẹt.
Nhưng Charlie không làm gì được nữa. Alfred đã ôm quàng lấy nó từ sau lưng, và Albert đục mạnh vào bụng nó.
“Úi daaaaa!” Charlie khuỵu chìm xuống gối, gập người lại đau đớn.
Alfert chộp lấy cái lồng và bỏ chạy khỏi hẻm Con Ếch, Alfred theo sau với cái thùng. Chúng nện rầm rập tới đầu ngõ hẹp, lùa Nancy đằng trước, trong khi Dorcas giúp Joshua nhét vẹt Homer vào ba lô của thằng này.
“Mày có thể giữ con chó”, Alfed hét với lại Charlie, “vào lúc này”. Bước chân hắn chợt sững lại thình lình. “Cái gì...?” Giọng hắn hơi run rẩy.
Charlie ngóc nhìn lên.
Ở cuối hẻm Con Ếch, ba khối sáng xuất hiện.
“Những con mèo lửa”, Charlie nín thở.
Một tiếng gầm rung chuyển con hẻm hẹp: tiếng ngao giận dữ, trầm đục của một sinh vật hoang dã. Tiếng ngao thứ hai hoà vào tiếng thứ nhất, và rồi tiếng thứ ba ngân cao hơn. Joshua cùng đám nhà Loom lùi lại, lùi lại. Càng lúc càng quýnh quáng. Chúng chưa kịp quay đầu thì một quầng sáng rực như lửa, chẽ làm ba, bay về phía bọn con trai, đáp xuống vai chúng.
Thét lên khiếp đảm, Joshua và lũ nhà Loom khua khoắng túi bụi khi những sinh vật cháy loá cắn vô cổ chúng.
“Giúp tụi này, Dorc,” Albert gào.
Khóc nức nở vẻ tiếc rẻ, Dorcas chạy vắt giò lên cổ không dám ngoái lại lần nào.
Đến lúc này, Albert đã phải thả rơi cái lồng và Alfred phải quăng cái thùng qua một bên. Một con mèo vàng vẫn bấu lấy ba lô của Joshua; miệng kêu bù lu bù loa hoảng loạn, thằng này giật bỏ ba lô ra khỏi lưng và chạy thục mạng theo bọn Loom, đang phóng chối chết gần hết con hẻm, nhanh chưa từng thấy.
“Tất cả chuyện này là sao đây?” Một giọng oang oang đằng sau Charlie.
“Ông Onimous đứng trong ngưỡng cửa quán Cà Phê Thú Kiểng. Ông mặc áo choàng dài bằng lông thú giả (Charlie hy vọng vậy) và trông giống như một con chuột chũi kinh khủng. “Chưa ăn sáng gì cả”, ông bảo, “vào thứ Bảy này. Chúng tôi đang định ngủ nướng ấy chứ.”
“Bọn nhà Loom đánh cháu.” Charlie đứng lên, xoa xoa cái bụng. “Bọn chúng với cái thằng Joshua Tilpin đồi bại đó”.
“Bác thấy cháu có một con vịt... và một con chó... và lại cả con trăn xanh da trời của chúng tôi nữa. Oronia sẽ mừng húm đây”.
Hạt Đậu sủa um lên khoái chí khi Charlie tháo xích cho nó.
“Cháu tìm được tất cả bọn chúng này,” Charlie nói, nhìn vô trong cái thùng. “Thỏ của Olivia và chuột cảnh của Gabriel”.
“Cái ba lô kia đang nói chuyện một mình kìa”, ông Onimous lo lắng nhận xét.
Charlie lật đật nhặt ba lô lên và mở quai ra. Vẹt Homer bắn vọt ra và bay lên không, nguyền rủa om xòm. Ông Onimous áp hai tay lên che tai. “Ngôn ngữ của cái con vẹt đó!...” Ông phản đối. “Nó học cái thứ kinh tởm ấy ở đâu ra vậy?”.
“Trong quân đội”, Charlie đáp. “Lysander bảo với cháu vậy”.
“Chậc! Chậc!” Ông Onimous xách lồng chim và cái thùng vào quán cà phê, trong khi Charlie vỗ về cho vịt Nancy bước qua cửa. Hạt Đậu thì không cần phải dụ. Nó xồ vào trong quán, vòng qua quầy và xông vào nhà bếp, ở đó nó biết sẽ có ít nhất là một cái bánh sô-cô-la rơi xuống cho mình.
Bà Onimous, mặc kimono hồng, đang chiên thịt heo muối khi Charlie và chồng bà bước vào. “Mấy con thú về rồi” Bà reo lên. “Ôi, bọn thú cưng yêu dấu. Sô-cô-la cho Hạt Đậu, bánh mì nướng cho Nancy và một cái gì đó đặc biệt cho con trăn này. Cháu tìm thấy chúng ở đâu vậy, Charlie?”
“Thôi đi, Lyell. Tuyết dày quá.”
Không có tiếng trả lời.
“Cậu làm rớt máy chụp hình bây giờ. Đeo bao tay vào. Tay cậu đông lại rồi kìa.”
Không có lời đáp. Chỉ có tiếng cười dịu nhẹ.
Charlie tự hỏi ông Bartholomew có trông thấy mặt nó trong màn tuyết dày đặc không. Khi nó “du hành” thì chỉ có gương mặt nó được người nó “viếng thăm” trông thấy – cái vụ đó có thể hơi ớn một chút.
Cơn gió điên cuồng thổi tung tuyết vào mắt Charlie. Nó cố phủi chúng đi bằng hai bàn tay tê cứng. “Ông Bartholomew!” Nó gọi.
Ông Bartholomew không nghe được tiếng nó. Nhà thám hiểm đã quay đi và gọi. “Đi thôi, Lyell. Chụp thế được rồi.”
Giờ là lúc cho Charlie quay mặt lại. Giờ, rõ mười mươi, nó sẽ trông thấy người đàn ông đằng sau máy chụp hình.
Nó quay lại.
Nó thấy một người đàn ông đội mũ trùm viền lông thú. Cằm ông tụt xuống trong cổ chiếc áo khoác có lớp lót, và phần còn lại của gương mặt ông bị chiếc máy chụp hình che kín.
“Lyell!” Ông Bartholomew gọi. “Hết ánh sáng rồi. Chúng ta phải trở về thôi.”
Một lần nữa lại tiếng cười dịu đó. “Cháu đến ngay đây.”
Giọng nói của ai vậy? Charlie có nhận ra giọng nói đó không? Máy chụp hình được hạ xuống và được đút vào túi áo. Chiếc mũ trùm đầu che sụp mắt người đàn ông. Ông đeo bao tay vào, cúi sát đầu xuống.
“Ba!” Charlie gọi. “Ba ơi!”
Người đàn ông bước tới trước. Ông đi sượt ngang qua mặt Charlie, đầu cúi oằn xuống để chống chọi với đợt tuyết đang ùa tới.
“Ba!” Charlie vừa vươn tay ra thì hứng trọn một bụm tuyết đầy.
Người đàn ông ngước mặt lên nhìn trời, như thể ông đã nghe thấy tiếng gọi âm u đó trong không gian xáo động. Chiếc mũ trùm của ông lật ra sau, nhưng Charlie chỉ thấy mờ mờ, tựa như một gương mặt đằng sau tấm kính đọng sương. Rồi lập tức gương mặt đó bị nhấn chìm trong tuyết.
“Chờ đã!” Charlie hét to. Khi nó há miệng, những hạt nước đá nhỏ li ti văng ra, rơi xuống tuyết thành những tiếng lanh canh độc ác. Ngực Charlie xé buốt như bị dao đâm. “Con sẽ đi đâu bây giờ?” Nó rền rĩ.
Trở lại cái nơi mà từ đó ngươi đã tới, cái giọng lý lẽ vang lên, nhưng não của Charlie đã mụ đi vì lạnh đến mức không thể nghĩ được sẽ về lại nơi đó bằng cách nào.
Mình sẽ chết cóng mất thôi, nó nghĩ. Nhưng người ta nói đó là một cách chết dễ chịu mà. Nó nhắm mắt lại. trong bóng tối mới thật yên bình. Chẳng bao sau nó thiếp đi.
Có cái gì đó cắn bàn tay Charlie. Nó cố vẩy đi, nhưng cái đó cứ bám riết lấy nó. Giờ thì nó đang chích ngón tay Charlie, bò qua mặt nó, giật tóc, rứt cằm nó.
“Để tôi ngủ, “Charlie van vỉ. Cái lạnh bao trùm lấy nó trong một tấm chăn dễ chịu.
“Hãy trở lại!” Tiếng thì thào dường như được dệt từ lụa mịn, nhẹ và cấp bách vô cùng. Charlie cảm thấy mình được nâng lên. Nó lăn mình trong không khí, thấy ấm lên, ấm dần lên, cho tới khi... nó mở choàng mắt ra.
Nó đang nằm trên giường của mình. Con bướm trắng lượn lờ phía bên trên, đôi cánh sáng chấp chới giống bạc hơn bao giờ hết.
“Bướm đã làm điều đấy”, Charlie nói đầy ngờ vực. “Bướm đã đưa mình trở về”.
Con bướm trắng đậu trên bàn tay Charlie. Nó không nói được nhưng sợi dây thấu hiểu nối kết họ với nhau kiến Charlie có thể nghe được câu trả lời.
“Phải, ta làm đó.”
Charlie ngồi lên. “Vậy là nếu có bướm đi cùng ta khi ta du hành thì ta sẽ luôn trở về được?”
Không có câu trả lời bởi một tiếng thét đã vang động cả nhà; một tiếng thét sầu thảm và kinh hoàng đến nỗi Charlie cảm thấy như tim mình ngừng đập.
Đó là tiếng thét của mẹ nó.