Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang
Chương 13 :
Ngày đăng: 15:23 19/04/20
Chiếc Áo Choàng Bị Đánh Cắp
Charlie và Benjamin bàng hoàng đến nỗi không thốt nên lời. Chattypatra liếm tóc Miranda, ư ử thảm thương, sau đó Hạt Đậu bắt đầu tru lên. Tiếng chó ai oán khiến bọn con trai bừng tỉnh. Charlie quỳ xuống và dè dặt chạm vô vai Miranda. Rất khẽ, nó gọi tên con bé.
Mí mắt Miranda động đậy. Con bé rên rỉ.
Một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa. Ông ta tóc nâu, ép vạt ra sau, đeo kính. Vừa thấy Miranda ông ta rú lên hoảng hốt và chạy ào xuống những bậc thang.
“Chuyện gì thế này?” người đàn ông thét.
“Cháu...” Charlie lắp bắp.
“Miranda! Miranda!” Người đàn ông cuối xuống con gái mình. “Ơn trời! Nó còn sống.” Ông ta bồng con nhỏ lên tay, ra lệnh cho bọn chúng. “Nói cho ta biết chuyện gì đã xảy ra!”
Charlie chỉ biết nói với ông ta sự thật, nghe thật lố bịch. “Bức tượng thần lùn...” Nó quay ngoắt lại. Bức tượng đã trở về chỗ cũ của nó bên cánh cửa, thinh lặng, không chớp mắt. Chỉ là một khối đá. Charlie hít một hơi thật sâu và nói, “Cháu biết ông không tin đâu, thưa ông, nhưng bức tượng đó đã bay xuống đây và đâm trúng lưng Miranda.”
Người đàn ông nhìn Charlie trân trối. “Ta tin cháu. Ta là Shelhorn, cha của Miranda. Ta nghĩ chắc hẳn cháu là Charlie.” Ông quay sang Benjamin. “Còn cậu là Benjamin, bởi vì có con chó. Miranda đã kể cho tôi nghe về các cậu.”
“Cháu nghĩ ông là ông dượng của cháu,” Charlie nói.
Ông Shelhorn có vẻ ngạc nhiên. “Chắc là vậy. Nào Charlie, cậu làm ơn đưa Chattypatra đi khỏi đây được không?”
Charlie lùi bắn lại. “Cháu nghĩ là không được, thưa ông. Miranda sẽ ra sao nếu không có nó?”
“Dĩ nhiên nó sẽ nhớ Chatty. Nhưng ta sợ sẽ có điều không hay xảy ra với con chó nếu nó ở lại đây. Thỉnh thoảng ta sẽ đưa Miranda tới thăm nó, nếu ta... nếu vợ ta...” Ông sợ sệt liếc tới cánh cửa để mở. “Ta phải đưa Miranda vô trong nhà. Làm ơn đi, các cậu. Làm ơn đưa con chó đi đi.”
Mắt Miranda chớp mở và con bé nói. “Có gì tống vô lưng con. Đau quá.”
“Ờ, cưng ơi. Để ba đưa con vô nhà nhé.” Ông Shelhorn bồng Miranda lên bậc cấp và vô nhà. Chattypatra lao bổ theo họ, nhưng cánh cửa đóng sập lại trước khi nó kịp lên tới nơi.
“Giờ sao?” Benjamin thở dài.
“Tụi mình phải giữ Chattypatra, chứ còn lam sao nữa?” Charlie nói.
Chattypatra lập tức rú lên những tiếng kêu tan vỡ trái tim. Bức tượng thần lùn nhìn nó. Charlie nhìn bức tượng. Và bức tượng giương ánh mắt trơ đá, hiểm độc về hướng Charlie.
“Được đấy, thần lùn! Giỏi gây tai họa đi!” Trao Benjamin cái ấm, Charlie phóng lên cầu thang, chộp lấy Chattypatra và nhảy một phát xuống vỉa hè. “Chạy!” nó thét.
Benjamin chạy, Charlie bay theo, với Chattypatra ngó ngoáy, kêu la dưới nách nó. Hạt Đậu chồm bên cạnh chúng, thúc giục chúng bằng những tiếng sủa động viên. Nếu chúng mà ở nào khác trong thành phố thì hẳn những cửa sổ đã mở tung ra với những giọng nói tức giận muốn biết việc gì mà náo loạn lên vậy rồi. Nhưng ở Ngách Tối này thì không. Hầu hết các ngôi nhà đều vắng chủ. Vài nhúm người ở đó thì cúi đầu xuống coi như không phải việc của mình. Họ không muốn biết những gì xảy ra ở ba căn nhà số 13.
“Ước gì Billy ở đây,” Charlie thở phì phò. “Nó có thể nghe được con chó khờ khạo này nói gì.”
“Đừng... gọi... Chatty là... khờ khạo.” Benjamin thở không ra hơi. Nó dừng lại, hít vô khó nhọc. “Coi kìa!”
Đang đi về phía chúng là ba con mèo. Chúng dàn hàng ngang bước, vai sát vai, đồng, cam, vàng. Những cái đuôi to nhổng lên cao, những cặp mắt vàng rực dán chặt vô Charlie. Hạt Đậu ngồi xuống, giương mắt nhìn chúng. Chattypatra im bặt. Nó thôi oằn oại mà nhìn những sinh vật sáng rực kia cho tới khi chúng đến đứng bên Charlie, rừ rừ đầy nhịp điệu.
“Chào, những con mèo lửa!” Charlie nói. “Các bạn cảm phiền nói gì đó với con chó này đi?”
Những con mèo lửa không cầm phải khích lệ. Sư Tử, con mèo cam, ngóc đầu lên và kêu một tiếng meeoo lớn hướng thẳng vô mũi con chó nhỏ. Dương Cưu, con mèo nối tiếp tiếng gọi, và rồi con mèo vàng, Nhân Mã, luyến láy đoạn kết.
“Suỵt!” con vẹt lặp lại.
Gabriel chờ đến khi thật im lặng mới nói. “Các bạn có chắc chắn là Hiệp sĩ mặc áo choàng đỏ khi các bạn trông thấy ngài không?”
“Chắc chắn,” Olivia đáp. “Cà lông chim đỏ cắm trên mũ giáp nữa.”
“Thú vị thật,” Gabriel nói.
“Sao vậy?” những đứa khác nhao nhao.
“Bởi vì tấm áo choàng của Vua Đỏ biến mất rồi,” Gabriel nhìn quanh những gương mặt chết điếng. “Các bạn biết tôi ám chỉ tới tấm áo choàng nào rồi chứ?”
Còn gì mà nghi ngờ? Charlie lo sợ tức khắc là chiếc áo sẽ rơi vào tay của những kẻ không thích hợp. Nó luôn tự hỏi làm sao mà tấm áo quý giá nhường ấy lại tồn tại được những chin thế kỷ. Nó biết rằng Guanhamara, con gái của Vua Đỏ, đã mang tấm áo tới Ý, khi nhà vua biến mất. Nó được lưu truyền qua bao thế hệ hậu sinh của bà, để rồi cuối cùng ngự trong một cái rương mòn vẹt trong ngôi nhà xiêu vẹo của Gabriel Silk ở trên đồi. Có lần, Charlie đã chứng kiến phép nhiệm màu vô song của tấm áo choàng đó. Bởi vì Gabriel đã mặc nó trong trận chiến với thầy bùa Harken. Gabriel ù lì, hiền như cây cỏ đã chịu đựng nổi cuộc tấn công chết người của lão thầy bùa mà vẫn bình an vô sự.
“Làm sao mà tấm áo... biến mất được, Gabe?” Lysander hỏi. “Anh muốn nói đến vật vô giá nhường đó? Một vật quý báu như vậy. Tấm áo choàng của chính Vua Đỏ.” Trong khi nói, Lysander bắt đầu vung cả hai cánh tay lên cuồng giận. “Bộ, em không khóa kỹ nó lại à?”
“Có chứ.” Bị xúc phạm sâu sắc, mặt Gabriel đỏ rần. “Nhà tôi là những vệ sĩ canh giữ tấm áo đó. Anh cho rằng gia đình tôi không xứng đáng với vinh dự này sao? Gia đình tôi gìn giữ nó là báu vật và canh chừng nó bằng cả mạng sống của mình.”
“Anh đã cất áo ở đâu, Gabriel?” Emma hỏi khẽ.
“Trong một cái hòm để dưới gầm giường của ba mẹ tôi. Thỉnh thoảng, khi tôi bị hành khó chịu, ba tôi lại cho tôi mặt nó vào. Ba tôi biết nó sẽ xoa dịu tôi. Cậu hiểu tài phép của tôi chứ?” Gabriel nhìn Charlie và Charlie gật đầu. “Ừm, tấm áo choàng là vật duy nhất từng có người mặc rồi mà tôi có thể mặc được. Cuối tuần vừa rồi, tôi cảm thấy bức bối trong người quá mức. Tôi đành xin phép ba cho tôi được mặc áo chỉ vài phút thôi. Ba tôi từ chối. Khi tôi nài nỉ mãi thì ba tôi mới bảo ‘Gabriel. Nó biến mất rồi. Chúng ta không còn có chiếc áo choàng nữa’.”
Cả bọn sững người nhìn Gabriel, hoảng hồn vía.
“Vậy là nó đã bị đánh cắp,” Lysander nói dứt khoát.
Lần đầu tiên Charlie thoáng nghĩ hiệp sĩ trên cầu có cứu chúng thật không. Rồi còn thanh gươm là sao? Lẽ nào bà Kettle nhầm lẫn? Coi chừng hiệp sĩ tới cửa nhà bà không phải là người đáng tin cậy. Có lẽ ông ta đã học biết được ngôn ngữ bí mật của họ, và dùng nó để chiếm đoạt thanh gươm nhiệm màu, một thanh gươm có thể được sử dụng để chống lại những người mà đúng ra đang khẩn thiết cần sự trợ giúp của ông ta.
Charlie đứng lên. “Chúng ta phải báo cho bà Kettle đề phòng. Em phải tới đó ngay đây, trước khi bà ấy trao thanh gươm cho một... kẻ mạo danh.”
“Charlie, khoan đã,” Lysander ngăn lại. “Chỉ vì tấm áo choàng bị mất, thì không nhất thiết phải nghi hiệp sĩ là kẻ mạo danh.”
“Nhưng cũng không có nghĩa là không phải.” Charlie đẩy ghế của nó lại.
Khoảng khắc tiếp theo, Charlie bị túm chặt bởi một bàn tay mạnh mẽ, đầy lông lá. “Charlie, cậu bé của ta,” ông Onimous nói. “Đừng đi vội. Ta đã định nói với cậu từ trước. Ta đã nhớ ra.”
“Gắng lên!” Homer la leo lẻo.
Lysander bụm tay che mỏ Homer. “Ông nhớ ra cái gì, ông Onimous?”
“Nó ở đâu... lối đi bên dưới lâu đài. Nơi mà cậu bé người sói có thể bị giam cầm.” Ông Onimuos cười tươi rói với cả bọn, tự hài lòng vì mình đã nhớ ra một thông tin quan trọng đến vậy. “Bà cố của ta đã từng làm việc ở trong học viện Bloor. Chỉ là lao công thôi, nhưng là một người rất xông xáo. Bà đã tìm một cửa sập ở đằng sau sân khấu. Bà đã mở nó ra và leo xuống, vô một căn phòng tối đen có bao nhiêu là quần áo cũ treo trong tủ. Bà ấy muốn đi xa hơn, nhưng đèn lồng của bà tắt, mà bà là người yếu bóng vía nên đành phải đi lên. Sau đó bà hỏi một nhân viên khác về nó. Đó là một ông già, một người hầu gì đó, sinh năm 1799 – hãy tưởng tượng coi – và ông ấy trả lời ‘À, đúng, có một lối từ căn phòng đó, đi sâu xuống, sâu xuống, sâu, sâu, sâu tít vô trong lòng đất tối tăm. Đó là một câu chuyện xưa, xưa lắm rồi, cách đây lâu, lâu, thật lâu, rằng lối đi đố dẫn đi mãi, đi mãi ra tới tận dòng sông’”.
“Tụi cháu đã vô căn phòng đó rồi!” Olivia vọt miệng, giọng nó vỡ lắc rắc vì phấn khích. “Nhưng ở đằng sau nó tối đến nỗi tụi cháu đã không dám đi vô quá xa.”
Ông Onimous vụt tắt nụ cười. “Vậy thì rất có nhiều khả năng bọn chúng đã nhốt cậu bé tội nghiệp dưới đó.” Ông nhìn Charlie. “Nhưng ta không bảo các cháu nên đi xuống đó đâu đấy, không, không đời nào. Ta không thích nghĩ rằng lời nói của ta đẩy các cháu vào một cuộc hành trình nguy hiểm chết người.”
Nhưng đã quá trễ cho ông Onimous rút lại lời của mình. Một khi đã nói ra, chúng có tác động tức khắc lên Charlie. Nó đã nhấp nhỏm nhắm tới lộ trình nguy hiểm chết người đó rồi.