Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 17 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Hiệp Sĩ Đỏ



Nếu con bướm trắng không đi với chúng, Charlie không nghi ngờ gì, chắc hẳn mình và Billy đã té xuống hố chết queo rồi. Những thanh ngang của cái thang mục tơi tả. Có chỗ mất mấy thanh liên tục. Không có ánh sáng dẫn đường thì bảo đảm chúng sẽ trượt chân, mà đường rơi xuống sẽ rất xa, xa thật là xa.



Nhưng cuối cùng chúng cũng lại được đứng trên mặt đất cứng. Ở đáy hố, những bức tường lát đá tảng và đá phiến khổng lồ, và đó kìa, lùm lùm trong bóng tối, có một sinh vật xám gầy giơ xương.



“Asa?” Charlie khẽ hỏi.



Sinh vật đó quay phắt đầu lại. Con mắt vàng nhoé lên kinh hãi trước ánh sáng xa lạ, và nó hộc lên một tiếng rền đục.



“Nó nói gì đó, Billy?” Charlie hỏi.



Billy bóp trán. “Em không biết.”



“Em phải biết.”



“Không biết. Em đã nói với anh hoài mà. Em không còn hiểu được ngôn ngữ của thú nữa.



Cuối cùng giờ mới vỡ lẽ ra. Trước đó Charlie không hỏi chuyện Billy đến nơi đến chốn, bởi vì nó không dám để chính mình tin là Billy bị mất tài phép thuật. “Điều đó có nghĩa là em cũng không thể nói chuyện được với anh ấy?” nó hồi hộp hỏi.



“Đừng nghĩ vậy,” Billy nói, dán tịt mắt vào sinh vật xám.



Bất thần một tiếng rống vang, và, răng nhe ra, con thú đâm xổ vào chúng.



“Asa!” Charlie hét. “Anh không nhận ra em sao?”



Tiếng rống hạ xuống đục rồ rồ. Charlie và Billy dựa chết dí vô tường.



“Cố lên, Billy, cố lên,” Charlie nhắm mắt trong hồn xiêu phách lạc.



Phản ứng của Billy là quăng chiếc mũ nồi ra giữa sàn. Sinh vật gừ và xồ tới gần hơn. Billy quăng tiếp cái quần theo sau chiếc mũ. Sinh vật hít ngửi chúng, nhỏng đầu lên và tru.



“Em nghĩ điều đó có nghĩa là anh ấy không thích chúng,” Billy nói.



“Anh mày còn kén chọn,” Charlie lầu bầu. “Nếu anh mà không thích đôi giày bốt này thì anh sẽ ăn cái mũ trùm đầu của anh luôn.” Chú ý để không làm sinh vật nổi giận, nó quẳng đôi giày bốt nhẹ hều qua một bên.



Sinh vật đi long tong tới đó. Khi nó cào đôi giày bóng loáng, Charlie nhận thấy con vật mới hốc hác tàn tạ làm sao. Từng cái xương sườn trơ lòi ra dưới lớp lông xám thô cứng. Hầu như khắp cơ thể không có lấy một gờ-ram thịt nào.



“Tội nghiệp,” Charlie nói khẽ.



“Em nhớ âm thanh chỉ giày bốt rồi,” Billy thì thào phấn khích, đoạn gừ lên một tiếng nhẹ.



Sinh vật ngước lên. Gừ một tiếng cộc lốc.



“Tốt,” Billy bảo. “Nó nói là ‘tốt’.”



“Em còn nhớ thêm âm thanh nào nữa không?” Charlie hỏi.



“Như cái gì?”



“Ừm, em coi có thể nói với anh ấy tụi mình tới cứu anh ấy, và anh ấy phải mặc đồ vào nhanh nhanh lên, trước khi tụi mình tìm đường hầm ra sông.”



“Charlie, anh ấy không thể mặc đồ được, anh ấy là sói. Mà sói làm sao đi giày?”



Charlie thấy mình khờ hết sức. “Ờ nhỉ,” nó ỉu xìu. “Anh ấy cần nhiều ánh sáng hơn để biến thành người.”



Billy thở hốc lên. “Em quên mất. Em chúa hay quên, nhưng mà, đây!” Billy thọc tay vô túi quần pyjamas và rút ra một cây đèn cầy. Ngọn nến lập tức bùng sáng. “Nến phép thuật của người giám hộ em,” Billy sung sướng. “Em luôn giữ nó bên mình.”



“Dĩ nhiên!” Charlie toét miệng cười. “Anh cũng quên phéng nó luôn. Anh nghĩ nó được việc đấy. Giơ cao lên, Billy.”



Kết hợp ánh sáng từ con bướm trắng và cây nến, trong hố bừng sáng hệt như ban ngày. Con bướm nãy giờ đậu trên đỉnh tảng đá cao nhất, giờ bắt đầu bay lại gần con thú. Lờn vờn giữa hai tai con vật. Thấy một tia sáng mỏng loe loé trên mái đầu xơ xác của mình, con vật táp con bướm. Nhanh như chớp, con bướm thụt xuống đậu trên lưng con vật, tỏa một vệt sáng gắt khắp xương sống nó. Con vật quay mòng lại, rú và tru lên gầm gừ. Không nao núng, con bướm nhỏ lòn vuột qua cái đuôi teo quắt và rồi, không thể tin nổi, nó bay đan xen giữa những cẳng chân của con thú cho tới khi mỗi chân trở thành một cột ánh sáng rực rỡ. Con thú lọng cọng nhấc chân lên, nhưng tiếng gừ lịm đi chỉ còn là tiếng rên phập phều.



“Anh ấy đang biến đổi,” Billy thì thào. “Coi kìa!”



Quả đúng vậy, con thú đang biến hình – một vệt tóc đỏ lưa thưa xuất hiện giữa đôi tai rách tướp. Những đặc điểm dài của sói mờ dần đi, hiện ra một cái trán nhợt nhạt, đôi má người vàng bủng hình thành quanh cái mõm nhọn, rồi tới đôi vai xương xẩu qua lớp lông xám lơ thơ. Cùng với một tiếng thét đột ngột – có thể là tiếng tru kháng cự hay niềm vui sướng – con thú quay lưng lại và nằm bẹp xuống đất.




Manfred lắc đầu tê liệt. Nắm chặt ổ khóa, hắn bỏ hướng tới cầu thang và nhắm tới lối đi giữa những tủ và rương.



“Thế thì hãy nhận lãnh hậu quả.” Lysander hú lên một tràng dài và những chiến binh đen dồn về phía trước. Khi họ vây sát Manfred, hắn thét lên một tiếng khiếp đảm, đồng thời quăng bừa ổ khóa cho Lysander, rồi vội vàng mở nắp một cái hòm đan bằng liễu gai lên và nhảy tọt vô trong, đóng nắp lại trên đầu.



Lysander bước tới cái hòm và bấm ổ khóa lại. Sau đó, rút chìa khóa ra, anh ngồi trên nóc hòm và đợi.



Sửng sốt trước ánh sáng rực rỡ rọi về phía mình, Charlie và Billy chù chừ trước khi bước qua hàng cột. Và chúng thấy Lysander, bao quanh là những tổ tiên tâm linh cao lớn của anh.



“Cái...” Charlie lắp bắp.



“Suỵt!” Lysander chỉ cái hòm bên dưới mình. Không mở khóa ra, anh đứng dậy và đưa tụi nhỏ lên cầu thang.



Trước khi đóng cửa sập lại, anh khẽ gọi những tổ tiên tâm linh, và mặt anh nở ra một nụ cười tươi rói.



“Chuyện gì thế?” Charlie hỏi.



“Manfred đang định khóa các em lại,” Lysander bảo. “Nhưng anh đã khóa nhốt hắn rồi. Tổ tiên của anh sẽ canh giữ hắn cho tới bình mình.”



Billy nem nép ngó gương mặt điềm nhiên của Lysander. “Nhưng anh ta sẽ tức giận... sẽ... sẽ...”



“Hắn sẽ không làm gì đâu,” Lysander trấn an thằng bé. “Em tưởng hắn muốn lu loa cho tất cả mọi người biết mình đã bị nhốt trong một chiếc hòm và không ngăn được các em trở lại sao? Tin anh đi, hắn quá kiêu ngạo để làm điều đó. Giờ, cho anh biết coi, các em có thành công không?:”



“Rất thành công,” Charlie đáp.



Khi chúng kiễng chân về những phòng ngủ chung của mình, Billy thì thào bằng giọng buồn ngủ. “Sander, em đã thấy Hiệp Sĩ Đỏ và một con ngựa trắng. Và em nghĩ đó là hoàng hậu mà lão Ezekiel đã vô tình làm sống lại.”



“Vậy chắc có lẽ Hiệp Sĩ Đỏ là nhà vua đó,” Lysander bảo.



“Cũng có thể,” Charlie nói.



Ở đầu kia thành phố, trên đường lái xe trở về nhà sau một điệp vụ tối quan trọng, chú Brown đếm thấy có không dưới mười bảy chiếc xe thùng móp méo màu trắng đậu ở những vị trí khác nhau trong thành phố. Chú ghi lại từng vị trí vào sổ tay của mình. “Có gì đó đang xảy ra,” chú lầm bầm. “Trừ phi... đúng rồi. Ảo ảnh.” Chú liền xé bỏ tờ giấy đó đi.



Vừa lúc đó, chiếc xe thùng duy nhất chú không thấy đã phóng ra khỏi thành phố.



Charlie Nhận Được Một Tấm Bưu Ảnh



Vào sáng thứ Ba, có một tâm trạng tò mò bao trùm khắp học viện Bloor. Thậm chí cả bọn trẻ không dính líu gì đến cuộc đào thoát của Asa cũng cảm nhận về một sự thay đổi trong bầu không khí.



Dagbert Endless nằm mẹp trên giường, mặt chi chít những vết cào. Chốc chốc lại rên rỉ về gió máy. Nắm tay nó áp chặt vào má, nhất định không cho ai thấy mình đang cầm cái gì, mặc dù, thỉnh thoảng giữa những ngón tay nó, lại để lộ ra những tia sáng vàng.



“Cứ mặc kệ nó,” bà giám thị bảo. “Nó đang bị ác mộng đấy mà.”



Thế là Dagbert được phép nằm lại giường, một điều chưa từng có đối với đứa trẻ nào trong học viện Bloor



Trong phòng riêng của hắn ở chái phía Tây, Manfred Bloor cũng nằm bẹp dí trên giường. Úp mặt vô tường, lảm nhảm về những chiến binh ma quái.



Lão Ezekiel đích thân lăn xe tới cửa phòng Manfred và gõ. Không có tiếng trả lời. Thấy cửa khóa, lão Ezekiel giật giật tay nắm cửa. “Mày có thành công không?” lão gọi. “Sứ mạng có hoàn thành? Asa đi đời? Charlie đi tong và oắt Billy tiêu ma?”



“Đi đi,” Manfred gầm gừ.



“Thế thì thất bại rồi,” ông cố nội hắn thở dài rồi thiểu não lăn xe đi.



Món trứng được phục vụ trong căng-tin xanh da trời. Charlie không bao giờ nhớ mình đã được chiêu đãi như thế này trong bữa sáng ở trường. Nó đứng ở cuối hàng, cố mở đôi mắt líu díu ra, ngáp rõ to.



Bà bếp trưởng trao phần ăn được thêm ê hề cho Charlie khi nó tiến tới quầy. “Ta đã ù ra ngoài mua trứng đó,” bà nói. “Tại sao bọn trẻ các con không xứng đáng một bữa sáng thịnh soạn cho khác đi?”



“Bà bếp trưởng, trông bà không còn lo lắng nữa,” Charlie nhận xét.



“Ta biết mình không đơn độc.” Bà nhoẻn với nó một nụ cười bí mật, sau đó lôi một vật ra khỏi tạp dề. “Ta tình cờ gặp ngoại Maisie sáng nay. Thật hên ơi là hên. Bà ấy nhờ ta mang cái này cho con.” Bà bếp trưởng nhoài qua quầy và trao cho Charlie một tấm bưu ảnh.



Mặt sau có một con tem nước ngoài và nét chữ viết tay của ba nó. Sau vài dòng về chuyến đi và thời tiết thì tới câu: “Một ngày nào đó ba mẹ sẽ đưa con đi cùng, Charlie, rồi con sẽ tận mắt thấy những sinh vật lộng lẫy đó.”



Ở mặt trước tấm bưu ảnh, hình một cái đuôi cá voi lưng gù choán lấp bầu trời trên mặt biển mênh mông, lấp la lấp lánh.