Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 16 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Cuộc Giải Cứu Bắt Đầu



Rạng sáng thứ Hai, trời xám và lạnh buốt. Trời tối đến nỗi ngoại Maisie phải thắp tất cả đèn trong nhà lên.



Nội Bone thức dậy sớm hơn thường lệ. “Bà thừa biết chuyện gị xảy ra khi thằng em ta xuất hiện mà,” mụ hạnh họe từ chiếc ghế xích đu bên lò sưởi. “ Tất cả bóng đèn sẽ nổ tung.”



“ Tôi sẽ lo liệu hết khi nó xảy ra,” ngoại Maisie nói, “nhưng tôi không thể nấu cháo trong bóng tối.”



Charlie còn nghe thấy họ lời qua tiếng lại trong khi nó đang đánh răng trong buồng tắm. Lúc nó trở lại phòng mình, ông cậu Paton gọi khẽ qua cửa phòng ông, “Vô đây, Charlie. Chúng ta nói chuyện.”



Charlie nhìn vô phòng của ông cậu. Ông đang ngồi bên bàn viết. Ngọn nến đặt bên cạnh ông sắp cháy hết. Charlie có cảm giác là hình như ông cậu chưa hề ngủ chút nào. Giường của ông chất toàn giấy là giấy.



“ Con phải nhanh lên,” Charlie thấp thỏm, “kẻo không con trễ xe buýt trường mất.”



“Việc này không lâu đâu. Vô đây rồi khóa cửa lại.”



Charlie làm như ông cậu bảo và đến đứng cạnh ông. “Ông có ngủ không vậy, Ông cậu Paton?” nó hỏi.



“Quá bận” Ông cậu Paton phẩy tay. “Nhưng xong tất cả rồi, Charlie. Ta rất hài lòng về mình. Ta đã xoay xở liên lạc được với ông Bartholomew Bloor và...”



“Naren?” Charlie kêu lên. “Họ ở đâu?”



“Suỵt!” Ông cậu Paton ra lệnh. “ Bé bé cái miệng lại. Họ ở đâu không quan trọng. Ta biết vài chỗ hồi xưa ông Bartholomew hay lui tới và ta yêu cầu gia đình Brown giúp ta tìm ông ấy. Họ là những thám tử tư kiên trì vô cùng, và chẳng mấy chốc họ đã dò tìm được. Barth là người rất kín kẽ, nhưng ông ấy đồng ý trợ giúp. Chiếc xe thùng của ông ấy sẽ chờ bên cầu- cây cầu đá, không phải cái thanh sắt tạm bợ chết người ấy đâu. Ông ấy sẽ chờ cho tới khi bình minh nếu có thể.”



“Gần cây cầu,” Charlie lặp lại, cố kìm ngáp.



“Bên mạn Bắc. Dưới hàng cây.” Ông cậu Paton nhìn sát vô mặt Charlie. “ Con có nghe kỹ không? Con định phóng thích cậu bé người sói vào đêm nay chứ gì?”



“Đúng. Đúng ạ.”



“Julia và ta đã nghiên cứu kỹ càng, và đúng như lời ông Onimous đã nói với con. Có một lối ngầm từ học viện dẫn tới dòng sông. Nó trổ ra một bãi cây nhỏ phía trên triền sông. Ta chắc chắn gia đình Bloor cũng biết nó, cho nên con phải cẩn thận, Charlie. Con đi một mình hả?”



“Không ạ. Có Tancred và Lysander đi cùng. Cả Billy nữa, bởi vì nó biết nói chuyện với thú.”



Ông cậu Paton nhìn xuống đống giấy tờ trên bàn mình. Mặt ông thật khắc khổ. “Ta cảm thấy ta không nên cho phép con tham gia việc này, Charlie. Cực kỳ nguy hiểm. Nếu có gì xảy đến với con...ta không thể tưởng tượng nổi mình sẽ ăn nói thế nào với ba mẹ con. Nhưng...”



“Nhưng đằng nào con cũng làm,” Charlie nói.



“Ta biết vậy,” Ông cậu Paton thở dài, “ Cho nên ta đã cố hết sức mình khả dĩ giúp cho con dễ dàng hơn phần nào. Ta ước gì mình có mặt ở đó, nhưng ta quá lộ liễu, với lại tài phép của ta...” ông mỉm cười phiền muộn.



“Những vụ nổ bóng đèn đường sẽ làm tiêu tan cuộc chơi,” Charlie vui vẻ nói.



Ông cậu Paton gật đầu buồn bã. “Nên nhớ, ông Bartholomew sẽ chờ ở mạn Bắc cây cầu. Mẹ của Asa cũng ở đó... và một người nữa.”



“Ai thế ạ?”



“Ừm. Cũng hơi phức tạp, nhưng không thể tránh được. Chồng của bà cô Venetia, ông Shellhorn, đã liên lạc với ta đêm qua. Ông ấy biết tên ta thông qua ông Onimous.”Ông cậu Paton gãi cằm trong khi Charlie nóng lòng lắng nghe.



“Ông Shellhorn quyết định phải trốn khỏi bà cô của con – đó là ý nguyện dứt khoát của ông ta, vì lợi ích của con gái ông ấy. Con bé không an toàn trong ngôi nhà kinh khủng đó. Vì vậy, họ cùng nhau tìm đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng và ông Bartholomew sẽ đón họ.”



“Còn Eric?” Charlie hỏi.



Ông cậu Paton lắc đầu. “Ông Shellhorn bất đắc dĩ phải để lại con trai. Thằng bé đã thay đổi hoàn toàn. Xem ra nó thán phục bà cô Venetia, để nó can dự vào cuộc đào tẩu bí mật này là quá nguy hiểm.”



“Bức tượng thần lùn!” Charlie la lên. “Họ sẽ không bao giờ qua được hắn đâu.”



“Bức tượng thần lùn biến rồi, cưng.”



Charlie thở hốc. “Sao được? Nó nặng cả tấn mà.”



“Bà thợ rèn bạn của con là một phụ nữ mạnh phi thường.” Ông cậu Paton nói. “Bức tượng thần lùn đã bị khóa lại rồi, và nếu Eric không biết chìa khóa ở đâu thì nó không thể làm cho bức tượng chuyển động.”



“Phù ù! Ông Bartholomew Bloor sẽ chở tất cả họ đi đâu?”



“Đi rất xa, tới nơi mà họ có thể an toàn. Mà con biết đấy, ông Bartholomew Bloor là người giỏi nhất trên đời về việc này.”



Bất chợt có tiếng gõ cửa rầm rầm. “Mày ở trong đó hả, Charlie?” nội Bone la quang quác, lay cành cạnh tay nắm cửa. “Mày trễ xe buýt bây giờ.”



Ông cậu Paton tròn mắt và đẩy nhẹ Charlie ra phía cửa. “À này,” ông thì thào. “Con phải cần đến Olivia nữa.”


“Không phải Asa – mà là Sói Hoang,” Billy nói. “Và em sợ là mình không thể làm được điều cần làm.”



“Em sẽ làm được mà. Đi thôi.” Charlie bắt đầu đi mau trong hành lang.



m thanh duy nhất trong tòa nhà rộng lớn, đang ngủ say này là tiếng bước chân nó lẹp xẹp trên ván lát sàn bằng gỗ sồi. Bầu tĩnh mịch vô biên khiến Charlie cảm nhận như mình và Billy là những sinh vật sống duy nhất. Nhưng nó cũng biết, ở đâu đó trong bóng tối, Dagbert Endless và Manfred Bloor vẫn thức, đang rình chờ nó.



Nhưng không ai hiện ra khi chúng cập rập đi ngược hành lang, không ai theo chúng trên hành lang hẹp tới nhà hát, và không ai chặn chúng trên sân khấu. Bóng tối trong nhà hát đen kìn kịt, Charlie phải lôi cây đèn pin của nó ra.



“Tụi mình đi đâu giờ?” Billly thì thầm.



Charlie huơ cây đèn pin ra cuối sân khấu cho tới khi trông thấy ô cửa sập. “Đó!” nó nói.



“Tối kinh quá,” Billy sợ sệt..



“Ừ,” Charlie tán đồng. “ Nhưng cây đèn pin này rất tốt.” Nó rua cây đèn pin dọc theo dưới gấu của tấm màn nhung, nơm nớp sợ Manfred ẩn đâu đó trong những nếp gấp nặng, sâu kia. Nhưng chẳng có ai ở đó. Nó nhón chân đi tới cửa sập và, lén lút ngó qua vai, cầm cái vòng sắt, nhấc cánh cửa lên.



“Nó không khóa,” Billy nhận xét.



“Không bao giờ.”



“Nhưng biết đâu. Có ổ khóa trên khoen cửa này. Ai đó có thể đóng cửa và bấm khóa nhốt tụi mình bên trong.”



Charlie liếc nhìn cái ổ khóa gỉ sét. “Nó cũ mèm rồi, Billly. Đã nhiều năm không ai dùng tới. Có khi không còn chìa khóa mở nó nữa đâu. Nhìn nè, nó bấm vô rồi. Không ai có thể mưor nó ra.Đi.”



Hạ cánh cửa sập xuống sàn, Charlie bắt đầu xuống cầu thang gỗ.



Billy ái ngại nhìn cái ổ khóa. “Em đóng cửa sập lại sau khi em xuống nhé?”



“Cũng được,” Charlie nói nhóng lên. Nó xuống tới chân cầu thang và bật đèn lên.



Billy leo xuống và kéo cửa sập lại phía trên đầu nó. “Em chưa bao giờ xuống đây,” nó nói khi đứng trong căn phòng đầy ắp tủ với rương, hòm.



“Đây là khu phục trang.” Một ý nghĩ vụt đến với Charlie. “Tụi mình nên tìm một ít đồ cho Asa, để khi trở lại thành người anh ấy mặc.”



“Nếu anh ấy có thể trở lại thành người,” Billy làm bàm.



Charlie mở cái rương đầu tiên. Nó lôi ra một chiếc áo khoác dày bằng vải tuýt và mặc vào bên dưới áo chùng của nó. Billy chọn một cái mũ nồi xanh da trời trong một cái tủ và một cái quần nhung kẻ trong một cái rương khác. Nó đội mũ lên đầu và cột cái quần quanh cổ. Charlie vồ lấy đôi giày bốt màu nâu đế dày cui, trông thích mắt, nghĩ bụng liệu sau đó mình có đổi cho Asa được không. Nó cột dây giày lại với nhau và quàng vào cổ.



“Tụi mình tắt đèn đi nha?” Billy hỏi, khi Charlie tới chỗ hốc tối đằng sau hàng cột.



Charlie lần chần. “Không. Tụi mình phải quay lại lối này sau khi đã đưa Asa ra tới bờ sông.”



“Nếu tụi mình tìm được Asa,” Billy lẳng lặng nói.



Khi đã đi qua hàng cột, Charlie lia cây đèn pin lên bức tường rêu mốc, đen sì. Ở đằng cuối bức tường, một lối đi hình vòm, thấp lộ ra. Trong khoảnh khắc đó, Charlie muốn đánh đổi tất cả mọi thứ để được quay trở lại. Nhưng nó biết là không thể. “Đi, “ nó nói và nhẹ cả người khi nghe tiếng bước chân của Billy lẹp kẹp đằng sau.



Cẩn thận tuôn qua mái vòm, chúng thấy mình vô một đường hầm hẹp. Mái trần thấp, tường và sàn được xây dựng toàn bằng gạch đỏ quạch, bể lỗ chỗ và lóng lánh đá vôi.Sau vài mét, đường hầm dốc sâu xuống, dốc đến nỗi tụi nhỏ bắt đầu trượt tuột luốt trên gạch ẩm ướt.



“Cứu!” Billy thét rùm.



Charlie mất đà ngã oạch xuống đất, nó quính quíu chộp đại bức tường. Cây đèn pin văng khỏi tay nó. Nó nghe tiếng cây đèn lăn lông lốc dưới đất rồi ngưng. Giây sau từ xa vộng lại tiếng thịch,khô khốc.



“m thanh nghe như nó lọt xuống một cái hố,” giọng Billy run rẩy.



“Có thể tụi mình đã lọt cái hố đó,” Charlie lầm bầm. “Cây đèn của anh tiêu là cái chắc.”



Nhưng vào lúc này, chúng không bị rơi vào bóng tối đen đặc – một vầng sáng bạc tỏa nhẹ đường hầm và, trên đâu Charlie, một đốm sáng nhỏ lập lờ.



“Claerwen!” Charlie ngước lên nhìn con bướm trắng. “Sáng quá. Anh đã hy vọng nó sẽ tới mà.”



“Charlie, tụi mình có lạc đường không?” Billy năn nỉ. “Em không muốn bị rơi xuống hố đó.”



“Có thể có cầu thang.” Quỳ thọp xuống, Charlie thận trọng bò tới trước. Tới miệng hố, nó có thể thấy một cái thang xếp bằng sắt dựa vô tường. Ngay cả trong ánh sáng tinh khôi của Claerwen, nó cũng không thể thấy cái thang kết thúc ở đâu.



Billy bò lại chỗ Charlie và ngó xuống. “Đó là vực thẳm,” nó thét. “Tụi mình không bao giờ xuống tới đáy đâu. Có lẽ nó đi vào lòng trái đất.”



“Làm gì có.” Charlie cố ra vẻ điềm tĩnh, nhưng nó không thể giữ cho giọng đừng run.



Bỗng rồi nó nghe thấy: tiếng con thú rên rỉ đằng xa. Tiếng rên thảm não, đứt ruột đến nỗi thúc Charlie quăng chân thòng xuống thang mà không suy nghĩ một giây.