Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 15 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Cán gươm bị giấu



Charlie giơ nắm tay lem luốc bồ hóng lên dụi mắt. Nó ngước nhìn những thanh xà rực sáng ánh lửa lò, mong ngóng thấy đốm sáng nhỏ xíu là con bướm của mình. Khẩn thiết hy vọng nó đã theo mình tới đây.



Lũ người đá hình như không thấy nó. Chúng đang bận hủy diệt ông Feromel quả cảm. Bị áp đảo về số lượng và sức mạnh, người thợ rèn quyết không đầu hàng cho tới lúc mọi tia lửa của sự sống trong ông tắt lịm. Chứng kiến cảnh trừng phạt man rợ mà ông Feromel phải chịu, Charlie phi thân vào gã đàn ông đá, gã chỉ huơ một cánh tay bành ki là gạt Charlie văng bay qua căn phòng. Nó lụi hụi đứng dậy và húc vào chân con mụ đá, nhưng vô ích, khác nào cố húc đổ một thân cây.



Bức tượng thần lùn chĩa ánh mắt trơ đá, hung tợn vào Charlie. Hắn xoay người một phát, ngáng cẳng Charlie từ phía dưới. Charlie hổng giò ngã ụp xuống đất lần nữa, và, khi nó nhắm mắt lại đau đớn, một luồng sáng phụt qua tầm mắt nó. Khoảng khắc tiếp theo, nó trôi lềnh bềnh.



“Charlie! Charlie!” những tiếng gọi từ xa trôi dần đến.



“Nó đang chu du phải không? Đáng lẽ nó không nên nhìn vô cái ấm đó.” Giọng này om xòm và cáu kỉnh.



“Cháu nghĩ nó đang ra khỏi đó kìa.”



Charlie thấy mình nhìn xuống một vòng nước đen như mực. Từ từ, nó ngóc cái đầu đau như búa bổ lên. Khắp xung quanh nó, hàng hà ấp đun nước nhấp nha nhấp nháy. Ánh sáng từ chúng tỏa ra chói đến độ Charlie phải nhắm tịt mắt lại để tránh bị lóa.



“Ngồi xuống, cậu bé.”



Charlie được dìu tới một cái ghế, và nó vô cùng cảm kích đặt thân mình nhức nhối của mình xuống. Một gương mặt to, bong nhẫy mồ hôi, dí sát vào mặt nó.



“Cưng làm thế để làm gì, hả?” bà Kettle hỏi. “Làm chúng tôi sợ một mẻ bạt vía.”



“Xin lỗi,” Charlie lung búng. “Nó tự nhiên xảy ra. Ông ấy cần cháu, nhưng vô ích rồi. Cháu không thể giúp được gì.”



Tancred trao cho Charlie một ly nước. “Em đi lâu đến mấy thế kỷ luôn đó, Charlie. Đông cứng tại chỗ. Không dấu hiệu sự sống. Anh với bà Kettle không sao dịch chuyển em được.”



Charlie hớp mấy ngụm lớn thứ nước lạnh dễ chịu. “Ở trong đó nóng dễ sợ,” nó láp ngáp.



“Ở đâu, cưng? Cưng đã đi đâu?” Gương mặt lớn của bà Kettle dời đi khi bà ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ghế của Charlie.



Hít một hơi thật sâu, Charlie nói, “Thật ra, cháu nghĩ mình đã ở ngay tại đây, có cả ông Feromel nữa.”



“Feromel?” bà Kettle bất giác chắp tay vào nhau. “Cưng đã gặp ngài?”



Charlie liếc nhìn gương mặt hoan hỉ của bà. “Xin lỗi, bà Kettle. Cháu đã cố, nhưng vô ích. Cháu không thể giúp được ông ấy. Cháu đã chứng kiến cảnh ông ấy chết. Gã đàn ông đá đã giết ông ấy. Sự thực mà chúng ta biết là như vậy.”



“Chao!” Tancred lẳng lặng thốt lên.



Một quãng im lặng kéo dài trong khi Charlie đấu tranh tự vấn lương tâm, không chắc có nên kể cho bà Kettle nghe về cái cán gươm vàng đó hay không. Bà là hậu duệ của ông Feromel, đường đường chính chính, bà phải biết về sự tồn tại của nó, nhưng Charlie vẫn lấn cấn nghĩ Hiệp Sĩ Đỏ chưa chắn đã là bạn.



“Đừng lộ mặt thoái chí thế, cưng.” Bà Kettle cầm bàn tay Charlie, vỗ vỗ. “Chắc chắn cưng không thể xoay chuyển được đâu. Hột xúc xắc đã đổ ra. Bọn đê tiện đã ra tay khi đầu óc cưng chìm vô trong cái ấm kia. Bà vốn luôn thắc mắc về nó mãi.” Charlie nhìn theo ánh mắt bà tới cái ấm to đùng, đặt trên bàn. “Đôi khi bà nghe thấy có tiếng lục đục, rồi có những khi bà thề là bà thấy ánh lửa nháng lên khỏi mặt nước đen của nó. Bà luôn tin rằng cái ấm cổ đó phản chiếu kết cục bi thảm của tổ tiên mình. Nhưng tại sao? Bà thường tự hỏi. Mục đích của việc ngài lưu lại ngày cuối cùng của mình trên đời này là gì?”



Charlie không thể giấu diếm sự thật lâu hơn được nữa. “Bởi vì ông ấy giấu một vật, bà Kettle ạ, và có lẽ ông ấy hy vọng, một người chu du nào đó, giống như cháu sẽ trở lại và thấy chỗ ông ấy giấu nó.”



“Giấu cái gì, Charlie?” Tancred hỏi.



Charlie nhìn từ Tancred qua bà Kettle. “Một cán gươm. Ông ấy bảo nó do chính tay Vua Đỏ trang trí.”



“Cái gì!” bà Kettle nhảy bắn khỏi ghế. “Nó ở đâu, Charlie? Ông Feromel đã giấu nó ở đâu?”



“Trong ống khói.”



“Ống khói?” người thợ rèn hét lên, chạy tới cánh cửa kim loại. “Thế thì ở trong lò sưởi. Bà phải dập tắt lửa đi mới được.”



“Không, không,” Charlie nói. “Không phải trong lò sưởi. Nó chỉ có một chút lửa ông ấy nhóm trong căn phòng.”



“Có một ống khói kìa,” Tancred chỉ mảng tường bao ống khói ở đằng sau một lò sưởi lớn bằng sắt.



Charlie lắc đầu. “Nó ở gần mặt đất, vì vậy nó phải thấp hơn nóc lò sưởi.”



Tancred nghi hoặc nhìn cái lò sưởi trông kiên cố. “Nó phải nặng đến cả tấn.”



Bà Kettle không hề bác bỏ điều đó. “Đi nào, mấy cưng, giúp bà một tay.” Bà bước tới lò sưởi và bắt đầu giật nó ra khỏi bức tường.



Hai thằng bé không còn cách nào khác, phải xấn tới giúp bà. Hên là lò sưởi chưa đỏ lửa, trong khi Charlie lôi từ phía mặt sàn, Tancred giật ở bên trên Charlie, và bà Kettle kéo ở trên đỉnh. Từ từ một bên lò sưởi dềnh dàng bắt đầu dịch chuyển khỏi tường. khi nó tách ra một lỗ hổng chừng nửa mét, bà Kettle la lớn. “Dừng lại, mấy cưng. Bà có thể nhìn vô trong ống khói được rồi.”



Charlie ghé mắt dòm vô trong lò sưởi. “Một cái lỗ rất nhỏ,” nó nhận xét.



“Thế thì chúng ta sẽ cho nó to hơn.” Bà Kettle đi huỳnh huỵch qua cánh cửa sắt vô xưởng rèn và quay trở lại hầu như ngay tức khắc, lấy ra một cái búa thật lớn. Ép mình vô giữa bức tường và lò sưởi, bà đẩy một phát cực mạnh bằng cặp mông to lớn của mình. Lò sưởi lùi lại ít nhất một mét nữa, cho bà thợ rèn đủ chỗ để quai búa vào bức tường đáy ống khói.



Rắc! Chỉ một búa là đủ đập vỡ những viên gạch trên ống khói. Bị bao bọc trong đám bụi đen, bà Kettle dộng thêm một nhát nữa. Với nhát thứ ba, một đống gạch văng khỏi đáy ống khói, vùi bà Kettle tới tận đầu gối.



“Aa-ha!” người thợ rèn reo lên chiến thắng. “Charlie, đến lượt cưng đó. Cưng coi ngài Feromel đã cất vật báu đó ở đâu.”



Dùng chân hất đống gạch vỡ ra để lấy đường đi, bà dịch tới phía sau lò sưởi và chỉ cái lỗ lớn mình vừa đập ra. “Cưng nghĩ sao?”



Charlie không biết phải nghĩ gì. Nó cố tưởng tượng căn phòng tối nơi nó đã giúp ông Feromel giấu cán gươm. Liệu cái này có đúng là ống khói đó?



“Tìm đi, Charlie!” Sự nhiệt tình của Tancred thổi tung những đám bụi lên không, khiến Charlie bật ho.



“Bình tĩnh, Tancred!” bà Kettle trách cứ. “Này, Charlie đeo cái này vô.” Bà trao cho nó một đôi bao tay quá khổ.



Charlie cẩn thận đeo chúng vào. Chuyển động của nó chậm chạp và lưỡng lự, bởi vì đầu óc nó đầy ắp mối hồ nghi. Có lẽ một vật quý như vậy không bao giờ được tìm thấy, nhất là bởi một đứa như nó, cái thằng không bao giờ tỏ ra xứng đáng được chạm vào vật sở hữu của nhà vua vĩ đại.



“Cái gì níu cưng lại vậy, Charlie?” bà Kettle dịu dàng hỏi.
“Đừng nói nhảm”, bà bếp trưởng la nó, rồi thêm, “Cha của mi đang làm gì?”



“Ông ấy đã trở về phương Bắc. Ông ấy không thích nơi này lắm”.



Bà bếp trưởng không tin nó. “Đi nhủ đi”, bà bảo nó, “trong khi ta chăm sóc thằng bé tội nghiệp này”.



“Cấm bà làm thế”, Dorcas nói một cách cay nghiệt.



“Đúng,bà bếp trưởng. Để mặc nó đó”. Dagbert xấn xổ tiến một bước về phía bà.



“Đi ngủ ngay lập tức”, bà ra lệnh.



“Đi ngủ”, bọn chúng giễu cợt. “KHÔNG. KHÔNG ĐI”.



Bất chợt, bà bếp trưởng thấy một bóng người lù lù đằng sau đám trẻ. Suýt nữa thì bà đánh rơi cây đèn pin vì sợ hãi. Chắc mẩm Lord Grimwald đang phăm phăm đi tới. Nhưng không phải.



“BỌN BAY HÃY LÀM NHƯ ĐƯỢC BẢO!” giọng người đó gầm vang.



Đồng thời hai đứa trẻ bị túm cổ áo và giật mạnh ra sau.



Bà bếp trưởng nhấc cây đèn pin lên một chút. Bà mỉm cười vừa ngạc nhiên vừa nhẹ nhõm cả người. “Giáo sư Saltweather!”



“Chào bà bếp trưởng!” giáo sư Saltweather giữ hai đứa trẻ quẫy đạp chỉ bằng một nắm tay vững chắc. “Đám trẻ này quấy rầy bà phải không?”



“Đúng thế. Bọn chúng đã làm cái gì khủng khiếp lắm với Billy Raven đáng thương này”.



“Thằng đó ớn xương”, Dagbert rống gào. “Ông không biết ông dây vào cái gì đâu, đồ ngốc già”. Nó co giờ đạp một phát thẳng cánh vô ống quyển giáo sư Saltweather.



“Thôi ngay!” ông thầy dạy nhạc gầm.



“Tôi sẽ làm điều tôi thích”, Dagbert the thé. “Chúng tôi được phép rồi”.



“Không phải với ta”, giáo sư Saltweather nói. “Nào,hãy trở lại cái giường khốn khổ của chúng mày đi”.



Thả Dagbert và Dorcas ra, ông đẩy cả hai đứa một phát về phía cầu thang.



Dagbert đứng lì lợm tại chỗ. Nó trừng đôi mắt thủy quái ra nhìn giáo sư Saltweather. Một làn mây luộn cuộn bao quanh vị giáo sư và bắt đầu tràn lấp hành lang. Thậm chí cả Dorcas cũng lảo đảo lùi lại,ho dữ dội.



Bà bếp trưởng thấy mình không thể thở nổi. Mây khói xộc xuống lấp đầy phổi bà và, nếu bà có thể tin vô mắt mình, có cá bơi xuyên qua tường và tảo biển lều phều trong dòng nước xanh lục khắp xung quanh bà. Lẽ nào nước dâng lên tận gác mái? bà tự hỏi.



“THÔI NGAY!” tiếng quát như sấm rền.



Giáo sư Saltweather xem ra không hề suy suyển trước làn mây ngạt thở và những hình ảnh nước.



Dagbert phọt ra cười ghê rợn. “Ông sẽ chết đuối”.



“Ta không thể chết đuối!”



Bà bếp trưởng không chắc những gì mình đã nghe. Những lời trầm sâu đó quay quay trong đầu bà. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Bà nhận thấy những con cá đang mờ đi, tảo biển héo quắt lại và làn mây tan loãng.



Dagbert đứng ở hành lang, trông hoang mang. Một con Dorcas khiếp đảm quặp chặt tay nó.



“Đi ngủ”, giáo sư Saltweather ra lệnh, lần này với giọng điềm tĩnh, rành rõ.



Hai đứa trẻ cung cúc quay đầu và chạy biến xuống cầu thang.



“Làm sao thầy làm thế được”, bà bếp trưởng ngờ vực hỏi.



“Không phải tự dưng mà tên tôi là Saltweather”, vị giáo sư cười đáp.



“Ờm”, bà bếp trưởng hít thật sâu và nhìn đăm đăm vô gương mặt phong trần và mái tóc trắng lọp phọp như bọt sóng của giáo sư. “Ông là một...một người trong chúng tôi?”



Giáo sư Saltweather mím miệng lại và đặt một ngón tay lên môi. “Tôi thích không ai biết hơn. Chính xác, tôi không phải là người được ban phép thuật, nhưng tôi có quyền năng ở những lĩnh vực nhất định”. Ông xoa hai tay vào nhau. “Nào,chúng ta hãy giải phóng chú bé này khỏi tình thế khó chịu của nó nào”.



Tấm vải liệm xám không dễ dàng bị gỡ đi. Nó cứ bám lấy những ngón tay của bà bếp trưởng và quấn quanh ống tay áo của giáo sư Saltweather. Nhiều lần họ bóc lớp sợi khỏi đầu Bily, để rồi lại thấy một lớp khác bò lên, lấp vùi thằng bé xuống nữa. Nhưng mãi giáo sư cũng gom được những lọn chỉ sau cùng và nắm chặt cái thứ xám ngoét kinh hoàng trong tay mình.



“Cái này, tôi tin là thứ mà người ta gọi là tấm vải liệm teo rút”, ông nói chắc như đinh đóng cột. “Nó teo rút ý nghĩ hơn là teo rút vật rắn”.



“Nó được dệt mà thành”, bà bếp trưởng quan sát. “Bằng kim loại rất lớn”.



“Một tài phép mà Dorcas thừa hưởng từ một trong những tổ tiên hiểm ác của nó, không nghi ngờ”. Giáo sư Saltweather vo tròn tấm vải lại như quả banh và đút vô túi quần. “Tôi sẽ tính sổ nó sau”.



Bà bếp trưởng quỳ xuống bên cạnh Billy. “Nó tỉnh rồi,con chuột con này”.



“Chuyện gì thế?” Billy rên rỉ. “Con đang tìm May Phúc thì...rồi thì...”



“Tốt nhất không nghĩ về nó nữa, Billy”, bà bếp trưởng dịu dàng.



Không một lời, giáo sư Saltweather cúi xuống và bồng Billy lên. “Chúng ta có thể mang nó đi đâu, bà bếp trưởng? Không nên để thằng bé một mình đêm nay”.



“Theo tôi”, bà bếp trưởng nói, “nhưng ông không bao giờ được nói với ai về nơi tôi sẽ dẫn ông tới”.



“Suốt đời, không bao giờ!” giáo sư nói.