Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 6 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Tượng thần lùn



Olivia bắt đầu khiến Charlie khó chịu. “Sao nó bỏ chạy như ma ám thế?” Nó thắc mắc.



Emma nhìn nó trách móc. “Chứ cậu nghĩ tại sao?”



Charlie bực tức. “Làm sao Olivia lại tin mình đã nói những điều ấy về nó. Dagbert bịa ra đó. Thằng đấy nói láo. Bồ đâu có tin, phải không Emma?”



“Ờm…” con nhỏ lúng túng. “Tớ luôn tin khi người ta bảo tớ… không đẹp, hay tớ ngu, hay…”



“Bồ không nên vậy, đồ…” Charlie kịp dừng lại. “Ý mình là bồ tuyệt đối không đc tin lung tung.”



“Dagbert luôn luôn dối trá,” Billy đỡ lời.



“Nó bảo Billy là đồ dị dạng,” Benjamin thêm.



“Mà Billy có bực mình đâu,” Charlie bảo.



“Đã bực,” Billy sửa lại.



Charlie giả bộ như không nghe thấy. “Và tớ thích các kiểu tóc của bồ, Em.”



Trông bộ Emma tươi lên. Con nhỏ suýt mỉm cười. “Để mình sẽ giải thích tất cả cho Liv. Nó rất nhạy cảm về diện mạo của mình. Nhưng, nói thật, mình nghĩ nó thích phóng đại mọi thứ lên cho kịch tính một chút. Chẳng bao lâu nó sẽ chán mang vẻ mặt cau có, và rồi nó sẽ lại hành xử như chưa từng có chuyện gì xảy ra ấy mà.”



“Mình hi vọng sẽ nhanh nhanh lên,” Charlie bảo.



Thằng bé con nãy giờ cứ dòm trừng trừng cái ấm đen. Thình lình nó hỏi. “Cái gì đó?”



“Cái này á?” Charlie giơ cái ấm lên với vẻ e dè. “Là cái ấm cũ anh mượn đó mà.”



“Cũ, cũ ơi là cũ,” thằng bé nhận xét.



Emma hét lên. “Xin lỗi, tớ quên mất. Đây là hai đứa em họ của bồ đó, Charlie.”



“Ý bồ nói chúng là … con của bà dì Venetia?” Charlie bắt đầu lư ý tới cặp đôi cầu bơ cầu bất. “Anh là Charlie,” nó cười toe toét với bọn trẻ. “Thì ra … bà cô của anh là mẹ mới của các em.”



“Tụi em biết rồi,” đứa con gái nói. “Em là Miranda và đây là Eric. Tụi em đi lấy con chó của tụi em.”



“Bồ không định đi với tụi này à, Charlie?” Emma mỉm cười đầy sức thuyết phục. “Tớ không thích Nghách Tối, mà Olivia thì về rồi.” Nó ôm lấy người và rùng mình.



“Đi chứ,” Charlie nói.



Nghách Tối không phải là nơi người ta thích đến một mình. Một ngõ hẹp tí,tối om om dẫn vào một khu toàn những tòa nhà cao, xám xịt bao quanh một mảnh sân lổm ngổm đá sỏi. Hầu hết nhà ở đó đều bịt kín mít – cửa lớn thì đóng đinh chết dí còn cửa sổ thì cài thanh chắn.



Ở cuối mảnh sân có một dãy nhà cắt ngang ngõ hẻm. Nhà nào cũng có những tháp nhọn cao nghệu, nhữnglan can sắt, cửa sổ dài, trên trán tường trang trí những tượng đá hình thù quái đản: người khổng lồ, yêu tinh, thần lùn, quỷ sa tăng và những con thú gớm ghiếc.



Nhà của bà Cô Venetia ở bên phải, vừa lợp mái mới sáng chói, trông khang trang hơn nhà của bà cô Eustacia ở chính giữa, hay nhà của bà cô Lucretia ở bên trái.



“Bà cô Venetia vừa dựng lại nhà mới,” Charlie nhận xét. “ Sau vụ hỏa hoạn trông nó kinh khủng khiếp.”



“Hỏa hoạn?” Gương mặt quắt queo của Miranda rúm lại sợ hãi. “Chuyện xảy ra thế nào?”



“Ờ … è … à, một tai nạn,” Charlie lảng tránh.



Emma nhìn nó một cái, ra điều cảm ơn nó đã không miêu tả chi tiết. Ba cầu thang dẫn lên ba cánh cửa đen; mỗi cánh cửa gắn một con số 13 bằng đồng thau ở chính giữa.



“Ba số 13,” Billy thì thầm. (Đây là nơi khiến người ta phải nói thầm với nhau). “Chắc chú đưa thư sẽ rối tinh rối mù?”



“Chắc chắn,” Charlie thừa nhận.



Có tiếng rên tru tréo từ bên trong ngôi nhà số 13 thứ ba, và Miranda thét. “Chattypatra đó! Thấy chưa?”



Chúng chạy băng qua mảnh sân và dừng lại ở chân cầu thang. Hạt Đậu bắt đầu sủa phấn khích. Đuôi nó ngoáy tít hầu như không thấy đâu nữa.



“Ông của bồ bảo chìa khóa ở dưới bức tượng thần lùn,” Emma nói với Charlie.



“Thần gì?” Nhưng Charlie đã thấy nó: một khối đá lùn tùm hụp, trông như quỷ hiện hình ở góc tối mái hiên.



“Chị tới đây, Chattypatra,” Miranda gọi. “Tới đây.”



Tiếng tru càng dữ dội hơn, biến thành một tràng rú mê sảng, trong khi Hạt Đậu hòa theo bằng tiếng đặc trưng ắng ắng của mình.



“IM ĐI!” Charlie hét con chó to.



Benjamin bụm bàn tay quanh mũi Hạt Đậu. “Bồ không cần phải quát nó thế,” nó nói như bị xúc phạm.



“Xin lỗi, chỉ tại mình không suy nghĩ được,” Charlie nhìn trừng trừng bức tượng.



“Có gì phải suy nghĩ? Chìa khóa ở dưới bức tượng.” Emma bắt đầu bước lên cầu thang.



“Đừng, Em.” Charlie níu cánh tay con nhỏ. “Cầm cái này.” Nó trao cho con nhỏ cái ấm.



“Óa, nặng quá.” Emma chạm vào hông chiếc ấm đen. “Nó nóng thế.”



“Mình biết.” Charlie đã nhận thấy cái ấm đang nóng lên. Có gì nguy hiểm ở nhà bà cô Venetia? Nó bước lên cầu thang trong khi bọn kia vẫn ở dưới sân, nín khe nhìn nó. Nó cúi xuống bức tượng, chợt dừng lại. Bức tượng vừa mới chớp mắt. Lẽ nào đó là hiếu ứng ánh sáng? Hay là bóng của Charlie đổ khuôn xuống khối đá? Không phải. Charlie chắc chắn một mí mắt của bức tượng vừa mới bao lấy con mắt tròn ác nghiệt. Việc xảy ra rất nhanh, hầu như không kịp thời gian cho Charlie ghi nhận. Nhưng đúng là nó đã động đậy.



Charlie quay lại đám trẻ dưới kia, tất cả đang nhìn lên nó, chăm chú theo dõi, ngoại trừ Eric – thằng bé đang ngó đăm đăm bức tượng với vẻ xa xăm, quái lạ.



Charlie nín thở, cúi lẹ xuống và đẩy bức tượng ra sau. Chiếc chìa khóa cửa của bà cô Venetia lộ ra. Nó nhặt lên và vẫy vẫy xuống cho bọn kia.



Cả đám hò reo “ Uu-raa!” và chạy ùa lên cầu thang.



Charlie tra chìa kháo vào ổ,vặn, và cánh cửa mở ra mà không két lên, huống hồ là tiếng rít dựng gáy như nó đã e ngại.



Một con chó nhỏ màu trắng bắn ra khỏi ngôi nhà và nhảy gọn vào vòng tay Miranda.



“Ôi, Chatty, Chatty!” Mắt Miranda có nguy cơ tràn lệ đến nơi.



Eric mỉm cười, một cách không cưỡng lại được.



Hạt Đậu mừng quýnh hơn bao giờ hết. Nó giật khỏi tay Benjamin, lao bổ tới, hít ngửi con chó trong tay Miranda. Chattypatra không phản đối; mà thật ra cô nàng sục mõm hít lại và sủa ăng ẳng rất bình thản vào tai chú chàng.



“Cuộc hôn phối thần tiên,” Benjamin thở hắt ra toại nguyện. “Mình luôn biết một ngày nào đó Hạt Đậu sẽ tìm được bạn gái mà.”



Miranda nguýt Benkamin một cái.



Charlie trả chìa khóa vào chỗ cũ và cả đám tức tốc rút khỏi Ngách Tối. Charlie cảm thấy tội nghiệp hai đứa trẻ sẽ phải trở về, sống với bà cô Eustacia nghiệt ngã. Nó đắn đo liệu mình có nên đề nghị chúng tá túc ở ngôi nhà số 8 không, nhưng có điều gì đó ngăn nó lại, có lẽ là ánh mắt lạnh lùng của Eric và cái kiểu thằng bé cứ liếc trộm chiếc ấm.



“Này!” Emma trao lại cái ấm cho Charlie. “Ấm gì quái chưa từng thấy. Giờ nó nguội rồi.”



Ngón tay của Charlie nắm quanh quai ấm lạnh ngắt. Nó không hó hé gì tới lịch sử kì lạ của vật này.



Nhóm trẻ tách ra làm hai khi chúng tới đường Đồi Cao. Bọn con trai Charlie rẽ trái vô đường Filbert, trong khi đám còn lại đi về khu nhà thờ lớn.



Benjamin cần Charlie hỗ trợ mới kéo được Hạt Đậu khỏi Chattypatra, cô nàng ngoan ngoãn đi bên cạnh Miranda, chốc chốc lại dừng bước và ai oán nhìn về hướng Hạt Đậu.



“Vậy không công bằng,” Billy nói. “Hai con chó đáng ra phải đi cùng với chúng ta.”




Cô Brown giơ tay lên.



Ông Marchwell hơi chồm tới trước. “Cô có ý kiến, cô… è, cô…?”



“Brown,” mẹ của Benjamin đứng lên. “Trish Brown. Tôi muốn nêu bật rằng, ông Yewbeam bảo với tôi là ông ấy bị một con người cắn. Một… người cổ xưa, có lẽ vậy, nhưng chắc chắn không phải là sói.”



Benjamin tự hào về mẹ mình quá đi mất. Nó thậm chí còn tự hào hơn khi mẹ cương quyết giữ lập trường trước những lời phỉ báng, rủa xả từ Agnes Prout.



“Nhảm nhí. Cô Brown. Phi lý! Hoặc là ông Yewbeam không còn minh mẫn, hoặc là cô điếc. Đó không phải là người. Mà là sói.”



“Nếu ông Yewbeam ở đây…” cô Brown bắt đầu.



“Ông ta không có ở đây,” Agnes cướp lời, “Thế thôi.”



Cô Brown giận đỏ phừng mặt và ngồi xuống. Chú Brown vỗ vỗ lưng cô.



“Hay lắm, mẹ,” Benjamin thì thầm. Mẹ nó cười với nó một nụ cười nhẫn nhịn.



Benjamin ngước nhìn lên những bóng đèn sáng choang trên trần nhà. Chắc chắn ông cậu của Charlie không thể tới dự cuộc họp này được. Mọi người sẽ bị chụp vô bóng tối, với mưa thủy tinh bao phủ ngay khoảng khắc ông bước qua cửa.



Cử toạ bắt đầu phừng phừng khí thế. Khắp phòng những cánh tay đưa lên rào rào. Người người la ó không chờ đến lượt mình. Bất lực, ông Marchwell giơ tay lên nài nỉ họ hãy tỏ ra văn minh, cho phép mọi người nghe nhau nói.



“Tôi đã thấy nó ở đại lộ Cruckton!”



“Có người bảo tôi nó ở đường Piminy!”



“Nghe nói nó được trông thấy ở quảng trường Nhà Thờ Lớn!”



“Nó bắt mèo ăn!”



“Và cả chó nữa!”



“Sẽ đến con nít mới sinh cho coi!”



“Rồi trẻ con!”



“Phải giết nó!”



Phải hồi lâu tiếng huyên náo mới dịu bớt, nhưng ông Marchwell là người quyết đoán, và ông đã xoay xở kiểm soát được phần còn lại của buổi họp. Chỉ về cuối, sự cuồng loạn mới ngấm vô trong vài tiếng nói.



Một phán quyết được đưa ra. Ngài thị trưởng sẽ được báo cáo về sự bức xúc mãnh liệt của cư dân về “cái vật” trong đồng hoang, theo đó một cuộc đi săn sẽ được tổ chức. Bắt buộc truy phải truy kích, phải bắt, hoặc phải giết cái được gọi là Sói Hoang. Vì ban ngày sinh vật đó im tiếng, nên cuộc đi săn sẽ bắt đầu vào lúc sẩm tối, ngay ngày hôm sau.



Khi cuộc họp giải tán, những tốp nhỏ vẫn còn tụ tập trên vỉa hè bên ngoài tòa thị chính. Benjamin nghe thấy những giọng điệu quá khích. Bạo lực sôi sục trong không khí. Trong nó bỗng dưng nghĩ những con người điên cuồng này còn nguy hiểm hơn bất cứ loài Sói Hoang nào.



Cô chú Brown lẳng lặng bước về nhà. Benjamin nhìn lên vẻ bất bình trên mặt họ và quyết định không hỏi han gì hết. Đúng vừa lúc leo lên bậc cấp nhà số 12, họ nghe thấy tiếng tru sầu thảm xuyên qua bầu không khí lạnh căm.



Benjamin rùng mình. “Nó không có vẻ nguy hiểm, mà nghe như nó đang u sầu.”



“Buồn u uất,” cô Brown đồng ý. “Có gì đó không ổn trong việc này.”



Năm phút sau, ngồi trong gian bếp ấm và sáng sủa, chú Brown nêu lên những giả thiết. “Thế này nhé. Chúng ta nghe thấy tiếng kêu từ đồng hoang, đúng không? Một con thú kêu, có thể nói vậy, một tiếng kêu mang ý nghĩa gì đó. Kêu cứu. Giờ ông Yewbeam nói ‘cái vật’ tấn công ông là con người.”



“Ông Paton Yewbeam không ngốc,” cô Brown chen vào. “Ông nói nó là con người, và em hoàn toàn tin ông ấy.”



“Anh cũng tin, Trish,” người chồng vội nói. “Anh tin. Cái vật mà cắn này có mang đặc điểm thú, vì vậy, có thể có mối liên hệ giữa cái vật trong đồng hoang và kẻ tấn công ông Yewbeam.”



Benjamin chăm chú lắng nghe ba mẹ thảo luận. Được thửa hưởng óc tò mò, nghi ngờ, cũng như khả năng phân tích, diễn giải và linh cảm gấp đôi cha mẹ, bản thân nó hứa hẹn sẽ trở thành một thám tử tài ba.



“Con có một linh cảm,” Benjamin nói.



Cô chú Brown đánh giá rất cao câu nói này.



“Linh cảm, ôi, Benjamin!” Cô Brown tỏ ra rất hài lòng.



“Là gì vậy con? Nói đi!” Chú Brown háo hức nghiên cứu vẻ mặt con trai.



“Ừm…” Benjamin quyết định kéo dài sự chú ý mà nó đã lôi kéo được. “Ờm, có lần Charlie đã nói với con về một anh học sinh, tên là Asa Pike, chưa hề được trông thấy ở học viện trong học kì này. Anh ta được ban phép thuật, giống như Charlie, chỉ có điều anh ta biến thành thú vào ban đêm.”



Chú Brown gật đầu thiếu kiên nhẫn. “Asa? Phải, ba mẹ biết cậu ta.”



“Ờm…” Benjamin nhấn nhá một lúc. Nét mặt lưu tâm của ba mẹ nó có vẻ rất mãn nguyện. “Điều ba mẹ không biết là Asa, một người có thời từng kề cận Manfred Bloor, ờm, Asa đã giúp Charlie tìm ra ba của nó, và con đoán là Manfred vô cùng tức giận về điều ấy, vì vậy, rất có thể hắn đã nhốt Asa ở đâu đó để trừng phạt.”



Cô chú Brown nhìn con trai với vẻ thán phục và vui mừng khôn xiết.



“Benjamin, con nói chí phải,” chú Brown hồ hởi.



“Một khi đã nhận ra chính xác tiếng tru đó, vậy con có nghĩ ra cách nào để cứu con vật tru đó không?” Cô Brown hỏi con trai.



Ở điểm này thì Benjamin nói dối ngây thơ: “Không”, trong khi một ý tưởng đang hình thành trong đầu nó. Đằng sau nó, Hạt Đậu đang nằm ngủ sóng sượt trong ổ. Hạt Đậu có thể tìm thấy bất cứ cái gì, Benjamin suy tính. Nếu ngửi được thứ gì thuộc về Asa, thì con chó bự có thể tìm ra anh ta. Benjamin giữ ý kiến này cho riêng mình. Nó không muốn bố mẹ nó giúp. Nó muốn tìm thấy Asa một mình, hay có lẽ cùng với Charlie.



“Chúng ta phải nhanh chóng làm gì đó ngay,” chú Brown nói, “không thì đội săn sẽ giết thằng bé đáng thương đó trước khi họ nhận ra nó là ai. Để anh sẽ đi gặp ngài thị trưởng.”



“Ông ấy không tin anh đâu,” cô Brown rầu rĩ. “Ông ấy vốn không quan tâm đến những việc xảy ra ở học viện Bloor. Ông ấy biết về những đứa trẻ được ban phép thuật, dĩ nhiên, nhưng ông ấy không thích thừa nhận điều đó.”



“Để con sẽ suy tính thêm,” Benjamin nói.



Tìm được một thứ thuộc về Asa không dễ như Benjamin tưởng. Nó phát hiện ra rằng chưa từng ai thấy cha mẹ của Asa bao giờ. Không ai biết họ sống ở đâu. Hình như họ không có họ hàng thân thích. Bất cứ thứ gì Asa từng mặc hay từng sờ vào đều nằm sâu trong học viện Bloor, một nơi mà những người như Benjamin không thể nào vô được. Chắc chắn gia đình Bloor sẽ không sốt sắng tham gia cứu Asa. Anh ta đã đổi phe. Họ có thể coi anh ta là kẻ chiêu hồi, một kẻ phản bội.



Đến lúc Benjamin đi học về ngày hôm sau, đội săn đã sẵn sàng. Hóa ra cả nửa thành phố đi theo dõi. Bốn mười người đàn ông tráng kiện tập hợp trên cây cầu dẫn tới vùng đồng hoang. Chỉ huy là cảnh sát trưởng Constable và cảnh sát viên Wood, một tay súng cừ khôi. Dưới trướng của họ là một đội quân tạp nham, trông quyết chiến trong trang phục hổ lốn – áo khoát có mũ, áo liền quần, áo gió, áo mưa. Đầu họ đội nón len, mũ trùm đầu, mũ nồi và thậm chí cả nón cao bồi. Vài người đi ủng không thấm nước, hoặc giày thể thao nhưng phần lớn đi giày bốt da vững chãi. Một nửa quân số mang súng săn, còn lại cầm đèn nháy và dùi cui.



Tiếng hò reo vang dậy khi bốn mươi hai người đàn ông rầm rập qua cầu và quẹo phải, đi vô con đường mòn cặp dòng sông. Đi chừng vài mét, con đường mất hút vô những bụi cây thấp rậm rạp – cửa ngõ vùng đồng hoang.



Đứng trên một lối mòn bên hông dòng sông thành phố, cha của Benjamin theo dõi toàn bộ chiến dịch. Chú ấy trở về nhà trong tâm trạng trĩu nặng, lo âu.



“Không xong rồi,” chú nói với vợ và con trai khi cả nhà ăn trứng bác và rau bina. “Sẽ xảy ra thảm họa mất thôi, hãy nhớ lời ba nói. Với súng ống thế kia, thể nào cũng có người bị giết trong vùng đồng hoang mà chưa chắc đã là cậu bé người sói.”



Benjamin bất giác nghĩ đến Naren, bạn của Charlie. Cô bé sống với cha mẹ nuôi trong căn nhà nhỏ sâu trong vùng đồng hoang. Nơi đó là một bí mật, thơ mộng, là nơi bảo tồn, nương náu của thú bị lạc và bị thương. Liệu nó còn là bí mật khi cả toán người vũ trang súng, dùi cui và đuốc hùng hổ, dẫm đạp cây cối xông đến?



Ước gì mình có thể bàn tính với Charlie, Benjamin nghĩ.



Charlie ngủ thiếp đi. Nó choàng tỉnh thì thấy ai đó đang lay vai mình.



“Charlie, có cái gì ở trên tường đằng sau anh. Chữ.” Đó là giọng của Dagbert.



Charlie ngồi dậy, dụi mắt.



“Nhìn kìa! Đằng sau anh,” Dagbert thúc giục.



Charlie nhìn quanh. Bức tường phía trên giường nó hiện ra chữ “Tạm biệt”. Lọt trong một mảng ánh trăng, những mẫu tự run rẩy, lọng cọng như không chắc mình đã xếp đúng chưa.



“Naren!” Charlie nói, quên cả thì thầm. “Em đi đâu?”



Không có thông điệp trả lời. Bức tường vẫn trống không. Mảng ánh trăng biến mất và căn phòng trở lại bóng tối mịt mùng như thường lệ.



“Cái gì vậy?” Dagbert hỏi.