Charlie Bone 7: Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock

Chương 18 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Chu du cùng với con trăn



Benjamin tỉnh dậy quá sớm. Nó có thể nghe thấy tiếng Hạt Đậu sủa om. Có gì đó trục trặc rồi. Trời vẫn còn tối mù và Charlie đang ngủ say. Benjamin mò mẫm quần áo và mặc vô thật lẹ. Nó vừa định mở cửa thì Charlie thức giấc.



"Ben, bồ đó hả?" Charlie ngái ngủ.



"Mình về nhà đây," Benjamin thì thầm. "Hạt Đậu đang sủa. Mình muốn xem coi mẹ mình có ổn không."



Bỗng nhiên tỉnh như sáo, Charlie nhảy tót khỏi giường và bật đèn lên. "Đừng đi mà không có mình, Ben. Mình muốn biết chuyện gì đã xảy ra."



Khi Charlie mặc đồ xong xuôi, hai thằng bé rón rén xuống lầu, rời khỏi nhà. Đường Filbert vắng tanh và lặng ngắt. Hạt Đậu đã ngừng sủa, nhưng có một ngọn đèn sáng trong hành lang nhà số 12.



Giữa lúc quá tất bật và hồi hộp vào buổi tối hôm trước nên Benjamin đã quên mang theo chìa khóa cửa nhà. Nó nhấn chuông và Hạt Đậu lại sủa nhặng lên. Thoáng sau, chú Brown mở cửa ra nhưng vẫn còn để sợ dây xích giăng ngang. Chú nhìn qua khe hở chừng mười xăng-ti-mét và hỏi "Ai đó?" bằng giọng dõng dạc, thách thức.



"Tụi con đây, ba." Benjamin ghé sát mặt vô khe hở "Cho tụi con vô, đi."



"Tụi con là ai?" Ba nó hỏi.



"Charlie và con. Tuicj con muốn biết coi mẹ có ổn không."



"Là cháu đây chú Brown." Charlie kiễng chân lên và nhìn qua đầu Benjamin.



À. Thấy rồi." Chú Brown thảo sợi dậy xích ra vè mở cửa. "Nhanh lên. Vô đi. Coi chừng chúng theo dõi ba mẹ đó."



"Ai ạ?" Charlie hỏi, khi nó theo Benjamin và chú Brown vô nhà bếp.



"Bọn chúng," chú Brown đáp. "Chú chẳng thể nói thêm gì hơn thế."



Cô Brown đang ngồi bên bàn ăn. Cô đã mặc váy thường nhật và áo lạnh của mình nhưng chưa tẩy trang kỹ lắm. Trán cô vẫn còn những đường kẻ màu xám giả làm nếp nhăn, với một bên má hồng và một bên má trắng. "Mới có 5 giờ mà," cô vừa nói vừa ngáp. "Các con làm gì ở đây?"



"Hạt Đậu đánh thức con dậy," Benjamin nói. " Với lại tụi con muốn biết có chuyện gì xảy ra với mẹ."



Ấm nước sôi và chú Brown rót ra bình trà, chú nói, "Đó là một câu chuyện dài lắm, các con. Mẹ con đã bị rượt đuổi ngoài đường, Ben à. Mẹ phải ở gần hết nửa đêm tại nhà một bà thợ rèn tên là bà Kettle."



"Bà Kettle?" Charlie kêu lên. "Bà ấy là bạn đó ạ."



"Đúng thế, Charlie," cô Brown nói. "Chắc chắn cô đã không thể còn ở đây nếu không có bà ấy."



Chú Brown trao cho tất cả mỗi người một tách trà và trong khi nhấp trà cô Brown bắt đầu kể về cuộc phiêu lưu dựng tóc gáy của mình. Rốt cuộc Charlie đã biết bức tranh ở đâu, và như thế nào; trong bộ đồ bảo hộ và chiếc mũ vải cùa bà Kettle, cuối cùng cô Brown mới thoát khỏi lũ người độc ác để tới được chỗ chồng mình - chú đang đợi chờ cô trở lại với vẻ đau đơn và lo lắng tột cùng.



"Mẹ không biết bọn người đó là ai," cô Brown nói, uống nốt tách trà của mình, "nhưng mẹ chắc chắn bọn chúng là đám người cực kỳ ác độc và hùng mạnh. Bà Kettle tin rằng bọn chúng đã ém lực lượng ở đường Piminy nhiều năm rồi. Đang chờ thời cơ, chờ ai đó như mụ Tilpin đến xúi giục bọn chúng hành động.



"Chắc chắn bây giờ bọn họ bị xúi giục rồi," chú Brown nói.



"Vậy là bức tranh ở trong Nhà Nguyện Cổ," Charlie tư lự.



"Charlie, cháu không thể tới đó đâu đấy," cô Brown tuyên bố, "nó không an toàn đâu."



"Nhưng cháu phải tới đó," Charlie tranh luận. "Cháu phải cứu Billy khỏi bức tranh."



Cô Brown giơ tay lên và nhìn chồng.



"Chúng ta sẽ nghĩ một cách khác, Charlie," chú Brown nói. "Chúng ta sẽ bàn thật kỹ để tìm ra một giải pháp cho cháu. Chúng ta luôn luôn tìm ra giải pháp nếu chúng ta chú tâm vào việc gì đó, phải không Trish?"
Bà Kettle tỏ rõ sự can đảm và cương quyết, Charlie thấy mình đón nhận cái giỏ mà không nói một lời nào nữa. Họ rời nơi an toàn của lò rèn và thận trọng đi qua con hẻm. Những ngôi nhà hai bên in bóng lên bầu trời lúc này đã sáng hơn. Màu xam xám dội xuống con hẻm rải sỏi ra tới tận cột đèn đơn côi đằng kia. Đó đây một khoảng sáng được trông thấy trong một ô cửa sổ - cư dân của ngõ Nhà Thờ Lớn đang thức giấc, nhưng nếu dân chúng của đường Piminy có tỉnh dậy thì họ cũng không tỏ ra một dấu hiệu gì.



"Tới rồi, cưng" Bà kettle thì thầm.



Hai người tới một bức tường dây leo chằng chịt, nơi có cánh cửa gỗ mở một nửa ra con hẻm.



"Ối may phước - chúng thậm chí không buồn đóng cửa lại," bà thợ rèn nhận xét bằng giọng thật thấp. "Ta không cần phải dùng cái kìm này nữa. Vô đi, Charlie."



Họ vô nhà và đi chừng vài mét thì bị một bức tường chặn lối vô khoảng sau nhà nguyện. Charlie không thể thấy cánh cửa nào. Cao phía trên nó, một cửa sổ hình vòm bị đóng bít bằng những tấm ván dày. Nó tự hỏi làm sao mà đi tiếp được."



"Đi vòng bên hông," bà Kettle giật ống tay áo Charlie và nó đi thẻo bà quành ra bên hông một toàn nhà.



Bước khẽ trên lối đi rải sỏi, họ tới mộ cánh cửa sơn màu xanh lá cây tươi rói. Một ổ khóa to sụ treo bên dưới tay nắm cửa.



"Cái này dễ hơn ta tưởng," bà Kettle nói. Quỳ xuống bên cạnh cái cửa, bà lấy từ trong túi đồ nghề ra một vòng kim loại có mấy cái ngàm sắt mỏng. Tra một ngàm sắt vô ổ khóa, bà vặn nó một lần, hai lần, ba lần. Một màn bụi xanh da trời phun tóe ra, một tiếng tách nhỏ và ổ khóa bung mở.



"Giờ đến cái tiếp theo." Bà Kettle vỗ cái lỗ khóa bên cạnh tay nắm cửa. Cái này đòi hỏi phải dùng cái ngàm hơi to hơn. Bà thợ rèn xoay nó hai lần trong lỗ khóa. Lần này bụi bay ra có màu hồng và tiếng cách mở rên to hơn. Bà Kettle đứng lên và xoay nắm đấm. Cánh cửa mở vô trong và Charlie thấy mình đang đứng trên lối vô một sân khấu phủ chi chít dây leo.



"Đó!" bà Kettle chỉ một tấm bạt lớn dựa vô bức tường ở góc xa của sân khấu.



Charlie thấy mình không sao nhúc nhích được.



"Đi đi, Charlie," bà giục. "Cưng không có nhiều thời gian đâu. Trời sắp sáng rồi."



"Cháu không thể," nó lắp bắp khản đặc. "Có gì ở trong đó. Có gì đó chặn cháu lại."



"Kẻ ác đó," bà Kettle nói điềm nhiên. "Những kẻ ác đọc như thế thường có khuynh hướng tung ý nghĩ của chúng đi khắp nơi, để những người như chúng ta không thể thở được không khí mà chúng ta đã hít thở rồi. Nhưng cưng có thể làm được Charlie. Cưng có đũa phép của ngài Mathonwy. Nó sẽ đưa cưng vượt qua."



Con bướm đã bay ra khỏi túi áo Charlie và đang bay xà quần trên đầu nó, như thể cô nàng biết rằng đã đến lúc cần đến sự trợ giúp của cô nàng.



Charlie bước chậm rãi qua sân khấu. Nó đặt cái giỏ xuống và quay bức tranh lại cho đối mặt với mình. Một lần nữa nó cảm thấy cơn chóng mặt vì nhìn vô một thế giới kinh khủng vậy.



"Con trăn, Charlie!" bà Kettle khẽ nhắc. Thân hình to lớn gần choán hết cánh cửa của bà khiến Charlie lập tức can đảm dâng trào và nó mở cái giỏ. Con trăn xanh da trời trườn ra và ngúc ngoắc cái đầu có lông chim trên không.



"Claerwen, nói con trăn tớ muốn vô hình," Charlie bảo. "Anweledig," nó thêm, nhớ ra là nên dùng tiếng xứ Wales. "Và tốt hơn bồ hãy bảo chính nó cũng vô hình luôn. Con trăn anweledig."



Con bướm đậu lên túm lông của con trăn. Một cảnh tượng kỳ khôi. Cô nàng đang nói với anh chàng bằng ngôn ngữ phép thuật của mình chăng? Xem ra nó có tác dụng, bởi vì con trăn nhìn Charlie ra chiều dò hỏi rồi chúi đầu xuống và bắt đầu cuốn quanh bàn chân Charlie. Từ từ, bàn chân Charlie, trong đôi giày thể thao màu xám, bắt đầu biến mất.



"Tạm biệt, bà Ketlle!" Charlie gọi.



"Chúc may mắn, Charlie," bà đáp, bằng giọng nói dường như đã trôi xa.



Một cảm giác quái dị, nhìn thấy chính mình biến mất, nhưng không phải là không dễ chịu. Cú quấn của con trăn mát mát và chắc, và Charlie nghĩ về nó giống như một vòng ôm thân tình. Khi cảm thấy mình đã hoàn toàn biến mất, nó nhìn trừng trừng vô bức tranh, chờ cho gió rền rú như lần trước.



Không có gì xảy ra. Không một tiếng thì thào. Không một hơi thở. Charlie không được muốn ở xứ Badlock. Liệu cái bóng có nhận ra nó, Charlie, đang đứng mấp mé ngay mí thời đại của hắn?



"Claerwen, đưa tụi mình vô," Charlie thì thầm. Rồi lại dùng tiếng xứ Wales. "Dwi isie mynd mewn."



Con bướm trắng bay xẹt ngang qua bức tranh. Cô nàng bay qua những toà tháp và những ngọn núi, qua những tảng đá và những bụi rậm, qua những đồng bằng sỏi đá. Cô nàng bay qua bầu trời thấp tè và đôi cánh quạt nhanh đến nỗi Charlie không còn nhìn thấy hình hài của cô nàng nữa - tất cả những gì nó thấy chỉ là một quầng sáng bạc, và nó phải dụi mắt trước ánh sáng rực chói đó. Nó có thể cảm thấy con trăn, nằng nặng trên vai, và có gì đó trườn trượt bên dưới bàn chân.



Khi mở mắt ra nó đang chu du vùn vụt qua một khu rừng cây cối trụi lủi, những cành cây phủ đầy tuyết đông cứng. Và rồi, gió chướng nổi lên.