Charlie Bone 7: Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock

Chương 7 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Tấm lưới nhiễm độc



Phòng ngủ chung dài hút, lạnh lẽo chỉ độc một ngọn đèn đã trở nên rất quen thuộc với Charlie...đến nỗi nó cảm thấy gần như ở nhà. Nhưng tối nay nó không sao ngủ được. Một bên nó, Fidelio lớ mớ trong giấc mơ, còn phía bên kia là Billy Raven trở mình, rên rỉ trong tấm trải giường nhàu nát.



“Billy, em thức à?” Charlie thì thầm.



Billy thôi trằn trọc mà ngồi dậy. “ Em lo cho Rembrandt quá. Ai sẽ chăm sóc nó?”



“Em nghe Olivia nói rồi đó. Bà Onimous không bị thương. Bà sẽ trở lại quán cà phê Thú Kiểng ngay mà. Anh cá đấy.”



“Thế còn ông Onimous? Chắc ông ấy bị... bị...” giọng Billy trượt đi.



“Sáng mai tụi mình sẽ hỏi bà bếp trưởng. Thể nào bà ấy cũng biết chuyện.” Nó nhắm mắt lại nhưng sực nhớ bèn quay qua hỏi. “ Cuối tuần tới em về nhà anh chơi nhé?”



“Dĩ nhiên,” Billy nói.



“Vậy là xong.”



Fidelio vừa chuồi ra khỏi giấc mơ âm nhạc và ngue ngon lành. Mãi cuối cùng Billy cũng nằm im bất động, đáng ra Charlie phải thấy dễ ngủ. Nhưng một câu hỏi khác nảy ra trong đầu nó.



Hà cớ chi Manfred lại quá sốt sắng muốn Billy tới nhà Charlie? Có gì liên quan đến bức tranh xứ Badlock không? Charlie nhớ ra mình chưa nói gì với Billy về bức tranh. Thấy Billy lo lắng cho con chuột quá mức nên việc đó đã vuột khỏi tâm trí Charlie.



Ánh sáng dìu dịu của con bướm trắng lập lòe phía trên Charlie, và nó quá vui sướng đã nhận ra con bướm đã theo mình tới trường. Nhìn Claerwen lộn vòng chao liệng trong đêm tối, nó bắt đầu buồn ngủ, nhưng đến khi nó vừa thiu thiu thì một giọng nói bật lên ong ong trong đầu nó, hình như muốn cảnh báo rằng: Đừng để Billy vô xứ Badlock.



Từ chiếc giường cuối ở chung dãy với Charlie, Dagbert Endless nhìn theo con bướm trắng nhảy múa trên trần. Nó thọc tay xuống gối lấy ra một con cá vàng nhỏ và năm con cua vàng bé xíu. Nắm chặt chúng trong tay, nó lẩm bẩm “ Linh vật biển” và một nụ cười quét ngang mặt nó.



Thế rồi những bức tường trống trơn của phòng ngủ chung tắm đẫm màu xanh lục và xanh lá cây, lợn gợn những ánh bạc. Khi những sắc thái tựa như nước dội xuống người Dagbert, nó nghĩ về mẹ. Những linh vật biển này mẹ nó đã cho nó một tháng trước khi chết. Bà ta đã tìm thấy rất nhiều vàng từ nhưng con tàu đắm sâu thăm thẳm dưới đáy đại dương, sâu đến nỗi người ta tuyên bố là chúng mất tích vĩnh viễn. Nhưng đối với một người như mẹ Dagbert, một nhân ngư, thì chúng không hề vĩnh viễn mất tích, và với bà ta biển là nhà - ở biển hệt như ở trong lâu đài mà chồng bà ta xây tặng. Bà tà lấy vàng dưới đáy biển làm nhẫn, xuyến, dây chuyền. Nhưng năm con cua và con cá này là những bùa đặc biệt, sẽ truyền cho thằng con thiên tài của bà ta sức mạnh có thể thắng áp đảo cha nó. Còn một con nhím biển bằng vàng nữa, đang nằm đâu đó trong đống đồ đạc của Tancred. Người Bão Tố đã tịch thu con nhím biển nhằm làm yếu uy lực của Dagbert.



Khi Dagbert năm tuổi, mẹ nó bị sa lưới đánh bắt và bị đè chết dưới hàng tấn cá, những sinh vật mà bà ta luôn coi là bạn.



Dagbert hé lộ dần những sinh vật biển khỏi những ngón tay nó. Sự thể mất con nhím biển khiến nó điên tiết. Vụ đánh cắp đó chỉ là một vết mờ trong đầu nó so với ký ức về mẹ. Nhưng nhìn con bướm đêm của Charlie Bone khiến nó chợt lóe lên một ý. Manfred muốn con bướm trắng đó, bởi vì, nếu không có con bướm, Charlie Bone sẽ không thể chu du. Nhưng nếu Dagbert bắt con bướm đó tức là Dagbert cũng sẽ tự giúp mình. Dagbert nghĩ, có thể Tancred sẽ phải trả bùa lại cho mình để đổi lấy con bướm của Charlie. Dorcas Loom sẽ làm cho mình một tấm lưới...con bé đó khéo tay. Chẳng bao lâu nữa cả bọn sẽ biết đứa nào hùng mạnh nhất.



Ngày hôm sau Charlie bắt được cơ hội nói với Billy về Hạt Đậu. Billy hay lang thang thơ thẩn tới khu đổ nát trong rừng. Thằng bé cảm thấy an toàn đằng sau những bức tường đỏ đồ sộ, với bầu trời bao la trên đầu và cảm giácvỗ về rằng có lẽ Vua Đỏ và hoàng hậu đang ở gần đâu đây.



Charlie nhìn Billy hướng về phía cuối sân thì dợm bước đi theo. Nó thấy Billy ngồi trên một tảng đá giữa hai trong số năm cổng vòm dẫn sâu vô lâu đài. Thằng bé tóc trắng đang ngó chong chong một phiến đã khổng lồ bị nứt bể ở chính giữa và có đất mới viền quanh. Khi Charlie lại gần, Billy nói. “Đó là chỗ mụ Tilpin tìm thấy gương thần phải không?”



Charlie nhìn phiến đá. “ Đúng rồi. Là nơi cái bóng đã chôn tấm gương.”



“Anh nghĩ mụ ta sẽ cố sử dụng nó lần nữa để đưa cái bóng trở lại à?”



“Ừ.” Charlie ngồi xuống bên cạnh Billy. “ Có việc này em cần biết, Billy.”



“Hả?” Đôi mắt hồng ngọc của Billy mở to ra đoán. “ Anh lại chu du vô trong tranh nữa chứ gì?”



“Sao em đoán được?”



“Nhìn anh là biết chứ sao. Lúc trước em không nhận ra vì em đang mải nghĩ về Rembrandt. Em vẫn chưa thấy bà bếp trưởng.”



“Con chuột của em sẽ không sao đâu. Này Billy, em cần phải viết tất cả mọi chuyện đã xảy ra hồi cuối tuần rồi, kẻo anh không có dịp nói cho em biết trước ngày thứ Sáu.”



“Em muốn biết mà,” Billy nói.



Thế là Charlie kể cho Billy nghe tuốt tuột: từ khoảnh khắc nó nghe thấy tiếng gió thở ra từ bức tranh, đến sự hiện diện của Hạt Đậu ở xứ Badlock. Billy rùng mình kêu hốc lên, nó kéo mũ trùm đầu, co rúm người lại, như cố ngăn chặn mình khỏi lời nói của Charlie nhưng vẫn ham muốn nghe thêm. Khi Charlie mô tả đến đoạn đào tẩu khỏi bức tranh nhờ sự trợ giúp của Claerwen, Billy thở phù ra nhẹ nhõm, “ Vậy là may rồi. Nhưng tốt hơn là anh không nên léo hánh đến gần bức tranh đó nữa, Charlie.”



“Không được. Anh không thể bỏ mặc Hạt Đậu. Nó bị kẹt lại vùng đất hãi hùng đó mà không ai trong chúng mình biết cách...”


“Xin lỗi,” Dagbert nói.



“Có ai giúp mày làm vụ này không?” Manfred gõ gõ cái cốc.



“Không, thưa ngài.” Dagbert cảm thấy đôi mắt đen của Manfred đang khoan xoáy vô mình, và nó phải dựa vô bàn để giữ thăng bằng. “Chỉ có...Dorcas. Cô ấy đã làm tấm lưới độc đó.”



“Con bé đó là một tài năng phi thường,” Manfred nói với vẻ mãn nguyện. “Mày có thể đi được rồi, Dagbert.” Hắn đứng lên và chỉ ra cửa.



“Còn về con bướm,” Dagbert nói. “Tôi biết ngài muốn nó để Charlie Bone không thể chu du an toàn, nhưng tôi không phải chỉ bắt nó vì việc đó.”



“Không ư?” Manfred nhìn con bướm bị nhốt.



“Không. Tôi muốn mặc cả bằng con bướm ấy. Tancred Torson đã ăn cắp con nhím biển của tôi, và không có nó thì tôi không thể...không thể...”



“Dìm chết người?” Manfred mớm.



“Không hẳn.” Dagbert nhăn mặt. “Tôi chỉ không là tôi nếu không có đủ tất cả linh vật biển của mình.”



“Ố, ta có thể đối phó với Tancred Torsson. Đừng lo, ta sẽ trả con bướm lại sau khi ta đã nghiên cứu nó một chút. Nhưng hãy bảo đảm là Charlie Bone không bao giờ có nó nữa.” Hắn phẩy một bàn tay vô Dagbert. “Giờ đi đi. Mày sẽ lấy lại được bùa của mày mà, đừng sợ.”



Charlie đang đứng trong phòng tắm, cảm thấy buồn nôn. Nó tự hỏi hay có ai đã chuốc thuốc độc mình. Nó bám vô thành bồn tắm trong khi căn phòng quay quay quanh nó. Đầu tiên là một chiều sau đó là ngược lại.



“Em ổn chứ, Charlie?”



Một giọng nói xuyên qua bức màn u u đầu Charlie. Nó xây xẩm quay đầu lại và thấy Fidelio đang đứng cạnh cửa phòng tắm.



“Cảm thấy khó chịu lắm,” Charlie nói. Nó lảo đảo qua cửa và Fidelio dìu nó vô giường.



Đúng lúc Dagbert Endless vô đang đứng dòm sựng Charlie. “Không khỏe à?” nó hỏi.



Charlie ngoảnh đi tránh đôi mắt sửng sốt màu nước biển của Dagbert. Nó cảm thấy sức mạnh rời bỏ mình. Người nó lả đi đến nổi hầu như không nhấc nổi cánh tay. Những hình thù lờ mờ chuyển động trong là sương che phủ thị giác của nó và nó nghe tiếng Fidelio gọi, “Bà giám thị, Charlie bị bệnh.”



Cái cụm từ “bà giám thị” dội bum bum vô tai nói, tự như âm thanh mơ hồ sâu dưới nước. “Cố lên được không, Charlie? Không gì mà một giấc ngủ đêm ngon lành không chữa khỏi.”



Đèn phụt tắt. Charlie nằm trong bóng tôi trong khi những hình ảnh quen thuộc lộn tùng nhào trong đầu nó: một hiệp sĩ áo chùng xanh lá cây, một con quỷ lùn bằng đá, một mặt biển xám dậy sóng. Nhưng hoàn toàn vắng bóng hiệp sĩ đội mũ giáp bạc cắm chùm lông chim đỏ lấp loáng. Và tất cả những gì còn lại của chiếc thuyền là chóp cột buồm đang chìm dần xuống mặ biển dữ tợn. Sau đó Charlie trông thấy Clearwen nằm trong một cái vòm thủy tinh ánh bạc đã phai khỏi đôi cánh trắng của nó. Bằng tất cả sức lực còn lại, Charlie nhổm chống cùi chỏ lên và thét “CLAERWEN!”.



Nguyên cả đám con trai đang ngủ trong phòng ngủ chung đã thức dậy ráo rọi. Những đứa nào chưa ngủ thì bắt đầu hét lên om tỏi.



“Câm mồm!” “Nó mắc chứng gì đó?” “Nó mất trí rồi!” Một trong những thằng học sinh lớp Một rên rẩm, “Anh ấy bị sao vật?” Đứa nào đó òa khóc.



“Bình tĩnh mọi người,” Fidelio trấn an. “Charlie chỉ bị ác mộng thôi. Ai chả có lúc vậy. Em không sao chứ, Charlie?”



Charlie ngồi dậy. Tiếng ù ù trong đầu nó đã hết. Cơn chóng mặt cũng đã qua. Nó cảm thấy trở về trạng thái như cũ. “Em ổn rồi, cảm ơn. Em thấy khỏe, rất khỏe.”



Manfred Bloor đã cất dọn hết cái hộp thiếc đựng ốc sên sấy khô của ông tằng-tằng-tắng tổ của hắn, những lọ đựng dầu dương và nước mắt khỉ, những hũ táo biển và cà độc, những thếp giấy vàng chở đầy những nét chữ bay bướm cầu kỳ. Manfred đã hy vọng chúng sẽ hữu ích trong việc hàn gắn vết nứt của gương thần Amoret, nhưng chẳng thấy có dòng chữ nào của bà Bertram Bloor viết về việc sửa chữa gương. Hắn quan tâm đến việc phát minh sáng chế hơn là phục hồi và làm mới lại.



Manfred khóa cửa chiếc tủ bằng gỗ sồi chạm trổ do những tổ tiên hắn để lại và thảy chìa khóa vô túi áo. Trở lại bàn viết, hắn bắt đầu nghiên cứu con bướm trong cái cốc thủy tinh. “Tao bắt được mày rồi, con bướm, đũa phép, hay bất kể mày là cái giống gì.”



Con bướm có vẻ đang nhạt nhòa đi. Đôi cánh bạc đã mất ánh ngời, cái đầu nó hơi nhàu.



“Chết,” Manfred tuyên bố. “Nhưng bọn tao vẫn có thể sử dụng mày.”



Một âm thanh xáo động từ cái cốc bật ra. Một tiếng tách rất nhỏ. Manfred ngồi xuống. Híp mắt lại, hắn quét khắp cái cốc tìm một vết nứt hay vết nẻ nhỏ. Hắn vừa định nhìn gần hơn thì thì một tiếng rắc đinh tai vang lên, cái cốc bể toang. Hàng chục mảnh vỡ sáng lóa bay vút ra cửa sổ. Thủy tinh dày đâm xuyên qua tấm kính và cái cốc rơi thành một cơn mưa thủy tinh trút xuống mảnh sân gạch bên ngoài tòa nhà.



Miếng vải mút-xơ-lin màu trắng nằm trống trơ trên bàn viết của Manfred. Con bướm đã thoát rồi.