Charlie Bone 7: Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock

Chương 8 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Cơn gió độc địa



“Weeedon! Weedon!”



Charlie nghe thấy tiếng thét trong mảnh sân gạch bên dưới phòng ngủ chung. Nhảy phốc khỏi giường, nó phóng ra cửa sổ. Ở đó đã có năm sáu thằng bu lấy khung kính



“Đó là thầy Giám Sát Tài Phép”, một thằng năm nhất phấn khích la to.



“Xem đầy thủy tinh kìa,” một thằng khác quan sát.



“Ai đó ném gạch trúng cửa sổ,” Bragger Braine, đứa năm hai tiếp lời.



“Đồ ngu,” Dagbert phọt miệng. “Thủy tinh từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài, nếu có gạch ném xảy ra.”



“Mày nghĩ mày thông minh thế à?” Rupe Small, nô lệ cúc cung của Bragger hằn học nói.



Một đống thủy tinh vỡ lấp loáng dưới sàn. Manfred đang chậm rãi đi vòng quanh, sục mũi giày về đống thủy tinh, ngồi xổm xuống dùng một cây bút chì chọc chọc vô. “Weedon!” hắn réo gào. “Lại đây mau!”



Ồn hiệu trưởng, giáo sư Bloor, mở cánh cửa sổ phía trên thư phòng của Manfred và hỏi, “Cái quái quỷ gì thế, hở?”



“Coi đây!” Manfred gào lên, bật đứng dậy. “Coi cái này này!” Hắn lại quăng tay chỉ vào đống thủy tinh vỡ.



“Sao lại có chuyện đó xảy ra?” cha của hắn chất vấn.



Charlie thấy Manfred ngần ngừ. Cái quái gì xảy ra tai nạn này thì hiện tại sẽ là bí mật của Manfred. “Làm sao tôi biết?” hắn quát, giọng hắn bị kích động lên tới nốt cuồng loạn.



“Ta cho rằng đó là một trong những thí nghiệm của anh,” giáo sư Bloor nói.



“KHÔNG phải!” Manfred rít rống. “Weedon đâu rồi?”



“Hắn đang lau dọn phòng của ta. Chứ còn ở đâu nữa?” Giáo sư Bloor thình lình phát hiện những gương mặt lô nhố trong khung cửa sổ phòng ngủ chung, bèn gầm vang, “Đi ngủ hết đi! Không ta sẽ cấm túc cả đám.”



Tức thì một trận chen chúc cuống cuồng tránh xa khỏi cửa sổ. Mười hai thằng bé lao về giường của chúng và kéo chăn lên tịt mít đầu. Chúng chờ bà giám thị đùng đùng xông vô, nhưng tối nay mụ ta đang có những việc khác chiếm lĩnh đầu óc.



Clearwen nằm úp trong những chiếc lá úa vàng giữa hai viên sỏi đồng màu. Nó thu mình nhỏ hết cỡ trong khi gã Weedon hốt mảnh thủy tinh xung quanh. Gã ụt ịt rên rỉ trong họng khi cúi xuống quét những mảnh vụn vô cái đồ hốt rác.



“Đổ tất cả vô đây, Weedon.” Manfred chìa ra một cái túi nylon trong suốt.



“Ngài định làm gì với nó?” gã Weedon hỏi. “Dùng chúng để thực hiện nghệ thuật sắp đặt à?”



“Không phải việc của lão,” Manfred nạt, cả hắn cũng đang tỉ mẩn quét nước. “Và nhớ cho ta biết lão có thấy gì bất thường không.”



“Kiểu khác thường gì?”



“Ồ, lão thừa biết,” Manfred nóng nảy. “Bất cứ cái gì không phải thủy tinh: có lẽ một con ruồi, hay một con bướm.”



“A!” gã khụt khịt. “Giờ thì tôi hiểu rồi”



Gã gác cổng tiếp tục gác thêm nửa giờ nữa, nhưng nhiệt độ đang tụt xuống nhanh lẹ và chẳng bao lâu sau cả mảnh sân rải sỏi đã bắt đầu lóng lánh sương giá.
“À, nghiên cứu của ta,” Ông cậu Paton mỉm cười, hình như với chính mình thì đúng hơn. “Ta đang viết về lịch sử dòng họ nhà ta, Billy à. Gia đinh YewBeam. Nhưng việc đào xới và khoan xoáy quá khứ lại dẫn ta đi sâu vô cuộc đời của nhiều người khác. Không thành phố nào trên đất nước này giống như thành phố này, con biết đấy. Trước hết, nó được xây dựng bởi một thầy pháp, hơn nữa, và một vị vua. Nhưng thầy pháp, những người tốt và kẻ xấu giờ đây nằm lẫn trong từng tấc đất của nơi này. Giống như một lớp vỉa quặng ăn liền vô đất trồng, đá và đất sét, đá vôi và đất mùn bên dưới bước chân chúng ta.”



Ngoại Maisie khẽ thốt lên “Chậc!” rồi lắc đầu bảo “Có cần thiết phải mua một chiếc xe moóc to như thế không, Paton?”



“Tổ tiên của chúng tôi ở rải rác khắp đất nước,” Ông cậu Paton đáp. “Tôi phải đi tới những nghĩa trang, thư viện, nhà riêng, văn phòng hội đồng, đại loại thế. Khi đêm xuống, tôi thường nhận ra mình ở xa nhà. Chắc chắn tôi không thể vô khách sạn được, với tất cả đèn đóm sáng trưng như thế. Tôi chỉ còn lựa chọn duy nhất là ngủ trên băng ghế công viên.”



“Và bị bóp cổ từ phía sau,” Billy nói.



“Bóp cổ, đúng. Chính xác, Billy.” Ông cậu Paton múc muỗm cuối cùng, tuyên bố đó là món hầm ngon nhất mình từng ăn, và ngồi ngửa lưng ra sau thở một cái thật khoan khoái.



“Ông đã tìm ra cái gì thú vị chưa ạ, ông YewBeam?” Billy hỏi tiếp.



Ông cậu paton nhìn Billy một thoáng, như thể đang quyết định xem có nên bộc lộ với thằng bé hay không. Cuối cùng ông đáp, “Có chứ, Billy. Có thật sự. Nhưng hiện tại những manh mối vẫn còn mũ mờ. Để tới lúc ta tháo gỡ được những chi tiết rối rắm, rồi thì...” Ông ngừng lại, “rồi thì sau đó, cuộc sống của nhiều người sẽ đột ngột thay đổi...đầy kịch tính.”



Charlie có ấn tượng là những lời nói của Ông cậu Paton rất có ý nghĩa với Billy, đúng là riêng với Billy, đến nỗi cuộc đời thằng bé có thể thay đỏi hoàn toàn. Phải chăng Ông cậu Patton đã phát hiện điều gì đó về cha mẹ thằng bé?



Ồn cậu Paton không nói gì thêm về nghiên cứu của mình nữa. Thay đổi đề tài, ông hỏi ngoại Maisie có gì xảy ra với bức tranh trong khi ông đi vắng không.



“Ông không nghĩ tôi nhìn vô tầng hầm đấy chứ?” bà bắt bẻ. “Sau những gì xảy ra với con chó tội nghiệp. Vả lại bà chị của ông khóa tịt cửa rồi.’



“Tôi chỉ tự hỏi, bà biết đây, xem bà có nghe thấy tiếng sủa hay tiếng tru...gì đó không,” Ông cậu Paton nói.



“Không.” Ngoại Maisie thu dọn đĩa và đem ra bồn rửa. “Nhưng tôi hay thấy Benjamin Brown cứ nhìn đau đáu qua bên đây như thể trái tim nó tan vỡ.”



“Con phải làm gì đây?” Charlie kêu lên, ụp hai tay che mặt. “Con sẽ cố cứu Hạt Đậu, cho dù không có Clearwen.”



“Con bị mất con bướm à?” Ông cậu Paton lo lắng.



“Con biết nó ở đâu? Nhưng con chưa thể lấy nó lại được.”



“Sao chưa?” ông cậu của nó nói.



“Quá phức tạp để giải thích.”



Ông cậu Paton chấp nhận câu trả lời này một cách miễn cưỡng. “Chừng nào chưa tìm thấy con bướm thì đừng nhìn vô tầng hầm. Đố là mệnh lệnh.” Ông đứng lên và đẩy ghế vô bàn. Chúc mọi người ngủ ngon, ông cắp cặp táp vô nách, lấy một cây nến từ trên tủ đựng ly chén và đi lên phòng riêng.



Khi ngoại Maisie nghe thấy tiếng cửa phòng Ông cậu Paton đóng lại, bà bật đèn bếp và giơ một chiếc khăn lau bát đĩa lên, “Nào các cậu bé. Ai sẽ lau đây?”



Billy xí lau bát đĩa, còn Charlie cất chúng đi. Ngoại Masie là người rửa chảo nồi sạch nhất.



Nửa giờ sau, khi Charlie và Billy đang leo lên cầu thang, một cơn gió lạnh quét qua hành lang. Lớp áo khoác trên mắc đu đưa trong cơn gió, hai bức tranh trên tường xệch qua bên, tấm thảm chùi chân đặt ở cửa bị nhấc lên một đầu, và chiếc mũ phớt của Ông cậu Paton vọt lên trần nhà, lật ngửa ra rồi rơi phịch xuống đất.



“Cái gì đó?” Billy bám chặt lấy thanh vịn cầu thang.



“Không biết.” Charlie tới nhặt chiếc mũ của ông cậu lên. Nó không hề nghe thấy tiếng gió ngoài đường, không có tiếng cửa lạch cạch, không có cây cối xào xạc. Nó ngó xuống hành lang dấn tới tầng hầm. Nó có thể đoán cơn gió độc từ đâu thổi tới nhưng quyết định không nói cho Billy biết.



Hay là cái bóng đã chạm tới chúng, ở ngay tại đây?