Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 11 : Thiên thần trong tuyết

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Một chiếc xe cảnh sát ập tới ngay tắp lự sau xe cứu thương. Cả hai loại xe đều quá trễ để cứu sống cụ Barnaby Bittermouse xấu số. Rõ mười mươi là cụ đã chết rồi, mặc dù cảnh sát điều tra không thể khẳng định được loại vũ khí nào đã giết cụ. Nghi vấn rằng cụ là nạn nhân của một vụ cướp không hề được đặt ra. Nhưng đã xảy ra chuyện gì vậy? Ví tiền vẫn còn ở trong túi quần cụ, chiếc đồng hồ vàng vẫn đeo trên cổ tay, và có mười bảng tiền lẻ còn nằm ở trong một ngăn kéo.



Charlie có thể thấy Ông cậu Paton đang cố quyết định xem có nên đề cập tới chiếc hộp hay không. Nếu ông nói quá nhiều thì rất có thể ông sẽ bị đưa đến đồn cảnh sát để thẩm vấn. Thể nào ông cũng bị ngồi bên dưới một ngọn đèn, có khi nhiều ngọn đèn, và ngọn nào cũng sẽ nổ tung, trước sự nhục nhã và ngượng đến chín người của Ông cậu Paton.



"Chúng tôi muốn rời khỏi đây bây giờ," Ông cậu Paton hạ thấp giọng nói với cảnh sát Singh, người mà ông đã nhận ra sau nhiều vụ chạm mặt khác. "Như vậy có tiện chăng?"



"Được, thưa ông. Nhung chúng tôi cần địa chỉ và số thoại của ông." Viên cảnh sát ngờ vực liếc nhìn Ông cậu Paton. Người đàn ông cao to đội nón đen này có gì đó là lạ. Chẳng phải ông ta đã gây ra mấy vụ rắc rối cách đây vài tháng? Bóng đèn... chính xác. Những vụ nồ bóng đèn. "Đừng rời khỏi thành phố, thưa ông. Có thể chúng tôi sẽ lại cần nói chuyện với ông lần nữa."



"Ố, nhưng tôi muốn..." Ông cậu Paton đắn đo. Trông ông nhấp nhỏm. "Tốt. Tôi sẽ báo cho anh biết nếu tôi dự định đi xa.



"Thế cũng được, thưa ông." Cảnh sát Singh rút quyển sổ tay ra. "Nào, vui lòng cho biết địa chỉ và số điện thoại của ông."



Ông cậu Paton cho họ biết, một cách miễn cưỡng.



Viên cảnh sát rà lại những ghi chú của mình, "Ông đã không hề biết quý ông lớn tuổi này, nhưng chỉ đến gặp để xin tư vấn về việc lập di chúc, cho dù hôm nay là Chủ nhật." Anh ta hơi nhướng lông mày lên một tẹo, nhưng vẫn nói tiếp bằng giọng như cũ. "Và ông thấy cửa trước để mở."



"Đúng," Ông cậu Paton xác nhận. "Tôi là người bận rộn và Chủ nhật là ngày duy nhất tôi có thể làm những việc... è, thế này.



Charlie thêm: "Cửa tự mở ra khi cháu gõ nó."



Cảnh sát Singh phớt lờ lời nó nói. Họ đã nắm hết tất cả mọi chi tiết trước đó rồi. Nhưng để không bị gạt ra rìa, Emma bảo: "Và cháu là người đầu tiên bước lên cầu thang."



"Mọi người lúc này có thể đi được rồi," cảnh sát Singh nói, ngoáy cây viết lia lịa lên quyển sổ tay.



Ba ông cháu đi hàng một ra lối Tigerfield. Xe cứu thương và hai chiếc xe cảnh sát đang đậu ở hém Thắt Cổ. Ồng cậu Paton sải bước đi ngang qua mà không liếc nhìn chúng. Charlie và Emma phải chạy mớí theo kịp ông và khi họ đi tới cổng dẫn vô ngõ Nhà Thờ Lớn, Charlie buột miệng. "Đó là Ashkelan Kapaldi. Chính hắn đã giết cụ già tội nghiệp đó."



"Cái gì khiến con có ý nghĩ như vậy?" Ông cậu Paton vẫn cắm cúi bước trên đường sỏi, mặt ông đanh lại giận dữ.



"Bởi vì cái vết chém dưới ván lót sàn. Thanh gươm có thể gây ra cái vết dó. Lúc nó đuổi theo con, nó cũng chém xuống đường như thế."



Ông cậu Paton chậm bước, rồi ông dừng hẳn lại và nhìn Charlie. "Con cừ đấy," ông nói.



"Con đã thấy cảnh sát nghiên cứu cái vết chém đó," Charlie nói. "Chắc hẳn họ thắc mắc dữ lắm cái gì đã gây nên nó."



"Thế tại sao bồ không nói cho họ biết về thanh gươm?" Emma hỏi.



Charlie nhìn cô bé một cái ngán ngẩm. "Mình nói bằng cách nào đây, Em? Làm sao mình nói được rằng: Xin lỗi, có một người đàn ông đến từ trường của chúng cháu, hán đã ra khỏi một bức tranh, và hắn có thanh gươm tự chém giết được?"



Emma trề môi lập luận, "Bồ nói thế được chứ sao. Biết đâu họ sẽ tới gặp và thẩm tra hắn."



"Ta nghi ngờ lắm, Emma," Ông cậu Paton nói. "Cảnh sát không thích nhúng sâu vô những chuyện siêu linh dị thường."



Emma nhún vai. "Con về nhà đây."



Họ nhìn cô bé băng qua quảng trường và biến mất vô tiệm sách, và lần này Ông cậu Paton không cố đi theo cô bé.



"Bọn chúng tìm chiếc hộp phải không?" Charlie nói. "Bất kỳ kẻ nào giết cụ Bittermouse cũng đều làm việc cho gia đình Bloor."



"Có lẽ vậy. Nhưng chúng có tìm thấy nó không? Và tại sao lại phải giết cụ già đáng thương đó?" Ông cậu Paton thảy một tia nhìn nấn ná tới tiệm sách và rồi sải bước đi tiếp về phía đường Đồi Cao.


"Bà ấy đang ngủ," ngoại Maisie nói, thận trọng ra ngó cửa phòng của nội Bone vào lúc 9 giờ. "Mọi người không nghe thấy tiếng ngáy ư?"



Charlie cũng đi vô giường ngủ. Ngày mai phải đi học. Liệu nó có gặp Olivia ở trường? Nó tự hỏi. Và con bé sẽ làm gì? Con bé sẽ trở thành bạn của ai?



Kệ cho bao nhiêu câu hỏi ong ong trong đầu, Charlie thấy mình dễ dàng ngủ dip lại. Nó nghĩ đến cô Alice Angel đang ở trong căn phòng phía trên nó. Thật dễ chịu khi biết cô ở trong nhà mình, cho dù cô là thiên thần hộ mệnh của người khác.



Chúng ta sẽ mượn cô ấy vậy, Charlie nói một mình, chỉ một thời gian thôi, cho đến chừng nào Olivia lại muốn có cô ấy. Rồi tâm trí nó lại lan man đến Billy Raven, bị kéo đi qua khoảng thời gian chín trăm năm tới cung điện của lão thầy bùa. Chả trách thằng bé không muốn về nhà. Bạn thiết thân của nó là một cô bé xinh xắn nhất trên đời - một bé gái tóc quăn lòn lọn, có nụ cười dịu dàng; một bé gái tên là Matilda, người mà Charlie sẵn sàng cho đi tất cả để được gặp lại một lần nữa.



Billy chẳng được sung sướng thoải mái như Charlie tưởng tượng. Thằng bé đang bị phạt, và nó đổ tội cho Rembrandt.



Rembrandt là con chuột của Billy, một con chuột đen bóng, mắt sáng quắc và có một bộ ria dài hết sức ấn tượng. Chú ta tình cờ ở trong túi quần của Billy khi thằng bé bị hút vô bức tranh xứ Badlock do một thứ bùa độc địa của thầy bùa (hay gọi theo danh xung đầy đủ của lão là bá tước Harken của xứ Badlock).



Cuộc sống ở xứ Badlock rất huy hoàng đối với Billy. Nó có quần áo đẹp để mặc, có đồ ngon để ăn và có một khu rừng đầy muông thú do yêu thuật tạo ra để hàng ngày đến thăm. Lại có cả Matilda, cháu gái của bá tuớc Harken, làm người bạn hiền lành nhất mà Billy từng biết. Nhưng Rembrandt muốn về nhà. Chú chàng năn nỉ ỉ ôi, kêu ca, kèo nhèo và nhai đôi giày mới của Billy, tóm lại là chú ta quấy nhiễu hết chỗ nói. Billy có thể liên lạc được với thú vật. Nó hiểu rõ từng tiếng chít, tiếng tru rống, rừ rừ và liếp chiếp... và còn nhiều thứ tiếng nữa... của đủ các loài thú.



Một ngày nọ Rembrandt đi quá xa. Đúng ngay vô bữa tối, một thời điểm tệ hại nhất mà chú ta lựa để quậy. Bữa tối trong cung điện của thầy bùa là một sự kiện quan trọng. Nó được phục vụ trong một tòa nhà rộng mênh mông bằng đá hoa cương đen. Những vì sao giả chiếu sáng trên mái trần hình vòm và những bức tường treo đầy các loại vũ khí sáng loáng.



Cái bàn lát kính trên mặt dài bảy mét, buộc lão bá tước và vợ, ngồi ở hai đầu đối diện nhau phải quát hết cỡ mới nói chuyện được với nhau, và tiếng quát của họ thường khiến cho Billy nhức đầu.



Billy và Matilda ngồi sát bên nhau, đối diện với Edgar, anh trai của Matilda, một thằng bé có gương mặt câng câng, hay hù dọa Billy bằng cách bất thình lình hiện ra từ một bức tường hay một cánh cửa. Những người ăn tối chỉ việc gọi tên những món mình muốn ăn, tức thì món ăn đó sẽ hiện ra. Billy thường chọn bất kỳ món gì Matilda chọn. Đó thường là súp Thịt viên, mặc dù đôi khi cô bé tiến cử cho nó xơi món bánh hấp Đại lễ, hoặc bánh tráng miệng Triệu hoa. Billy cố lén cho Rembrandt ăn càng nhiều càng tốt khi Edgar không nhìn thấy chú chàng. Edgar ghét cay ghét đắng chuột, thằng đó gọi Rembrandt là đồ ghê tởm, không xứng đáng được đi trên mặt đất chứ đừng nói là sống trong một cung điện.



Vì vậy khi Rembrandt, mệt chán vì những món ngon thường ngày, nhảy lên bàn và chạy cái vù qua đĩa của Edgar, thằng này nhảy dựng lên thét như bị bóp cổ, giật lấy một con dao treo trên tường và phi vô con chuột. Hên là con dao bắn sượt qua Rembrandt, lướt lập phập trên bàn, nhưng Billy đã đứng phắt lên, quát thét Edgar.



"Đồ độc ác, đồ kinh khủng!" Billy thét. "Mày suýt giết chết con chuột của tao!"



"Thật đáng tiếc là nó đã không giết chết con vật," bà bá tước lạnh lùng nhận xét.



Cái lạnh tanh trong giọng nói của bà ta làm Billy tê cứng người lại. Rembrandt nhảy vô vòng tay nó, và nó ngồi phịch xuống.



"Sinh vật đó phải bị giết," bà bá tước tiếp. "Ngài có đồng ý không, ngài Harken?"



Billy nhìn ngây vô gương mặt dài của bà bá tước. Đôi mắt đen ti hí của bà ta dán chặt vô con chuột đang lủng lẳng nơi ngực Billy.



"Sao hả ngài Harken? Nói gì đi!" mụ bá tước cao giọng chất vấn.



Billy quay qua dòm lão bá tước, lão này cho đến bây giờ vẫn lờ tịt vở kịch đang diễn ra trên bàn ăn của lão, như thể không có gì bất thường xảy ra. Nhấp một ngụm rượu từ cái ly bằng vàng, lão nhìn Billy với vẻ trầm ngâm rồi đứng lên.



Billy co rúm lại trước ánh nhìn xoáy buốt của lão thầy bùa. Tấm áo thụng xanh lá cây của lão sáng choe chóe kim cương và đá ngọc thạch, búi tóc của lão chói rực một lớp vàng nhuyễn. Đôi khi Billy nể sợ vẻ lộng lẫy của chủ nhân của nó đến nỗi nó không dám nhìn lão. Nó nom nớp chờ đợi lời tuyên bố chính thức của thầy bùa. Cuối cùng lời tuyên bố cũng vang lên.



"Chúng ta không cần mất công với con chuột đó," lão thầy bùa nói.



Trái tim Billy đập một nhịp nhẹ nhõm. Tuy nhiên niềm hy vọng của nó bị dập tắt ngúm bởi lời tiếp theo của lão thầy bùa. "Sinh vật đó có thể làm đồng bọn với thằng bé ở trong hầm ngục."



Thưa ngài, ngài không thể làm thế!" Matilda kêu lên.



"Billy là khách của chúng ta."



"Ta mệt mỏi khách khứa rồi!" lão bá tước gầm lên mắng cô bé. "Lính đâu, đem thằng nhóc này đi."



Trước khi Billy kịp nghĩ điều gì xảy ra tiếp theo, hai người lính xông tới, tóm lấy hai bên cánh tay nó. Rembrandt rớt tọt xuống nền nhà và chạy hấp tấp bén gót Billy khi thằng bé bị điệu ra khỏi phòng. Nó có thể nghe thấy tiếng khóc phản đối của Matilda mờ dần khi nó bị mang đi càng lúc càng xa, qua những hành lang tối và dài hun hút dẫn tới hầm ngục.