Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 18 : Con ruồi của rembrandt

Ngày đăng: 15:24 19/04/20


Cuộc hành trình bằng tấm gương của bà Amoret không hề giống chút nào với chu du qua tranh. Cho tới lúc chạm đích, đầu óc Charlie bị nhồi nhét một đống hình ảnh mà nó sẽ không bao giờ quên được : những cồn cát vàng óng ả, êm tựa như nhung, một con lạc đà lao qua những hàng cây, có một thẳng bé tí xíu đang cưỡi trên lưng, những thành phô lô nhô mái vòm và một mặt biển màu ngọc bích.



Sau đó Charlie đứng trong một lâu đài bằng đá trắng, nơi đang diễn ra một trận đọ kiếm tay đôi giữa một thanh niên châu Phi áo đỏ sẫm và một người trẻ tuổi tóc vàng áo xanh lục bảo. Tiếng thanh gươm chát chúa dộng vô tai Charlie trong khi nó vù chíu qua cảnh này để rồi trôi bồng bềnh trên mặt biển xám bao la, phía trên nó, một cánh buồm màu cam bay phần phật trong gió. Tiếp đến là những vách đá trắng, một khu rừng bất tận và một lâu đài đỏ như máu trôi vụt qua.



Giờ thì Charlie đang rơi, lộn tùng phèo, loáy xoáy giữa một trận đá lở, bay vèo qua một đồng bằng cằn cỗi, nơi có những ngọn tháp đen sì chĩa lên bầu trời vần vũ. " Xứ Badlock " Charlie thét bể cuống phổi khi bị gió quăng quật trên không. Nó quay tít tới một ngọn núi chắn đột ngột trước mặt như một tấm màn đá. Nhưng trước khi đâm sầm vô đó Charlie đã được nâng bổng lên khỏi một cung điện bằng đá hoa cương đen, nơi có những đống lửa cháy tràn ra từ những giá sắt đóng vô tường. Và rồi nó tiếp tục rơi, rơi, rơi,...



Ai đó la thét lên. Charlie lắc đầu, dụi mắt. Thấy mình đang ngồi bệt trên một tấm thảm cực êm, trang trí hoa văn sặc sỡ.



" Charlie Bone! " Tiếng ai hoảng hốt.



Charlie quay đầu lại. Và kìa, Matilda đang ngồi ở phía đầu của một chiếc giường bốn cọc mùng. Cô bé vẫn mặc váy màu hoa mao lương vàng như lần trước.



“Chào bạn!” Charlie thấy mình mừng rỡ cười toe toét, dù cho đầu nó vẫn đau nhức và cảm thấy bầm dập khắp người.



Matilda tuột vội khỏi giường và nhẹ nhàng đỡ Charlie đứng dậy. “Tớ mừng là bạn tới đây,” cô bé nói. “Nhưng tớ tưởng bạn phải đi qua bức tranh của ông cố tớ chứ.”



Charlie giơ tấm gương lên. “Tớ đã dùng cái này.”



“Ố,” Matilda sững sờ. “Nhưng tớ đã thấy nó ở đây, ở trong phòng bùa chú của ông cố tớ mà. Lúc đó cách đây lâu lắm rồi, khi tớ còn nhỏ xíu xíu.”



Charlie nhíu mày nhìn tấm gương. “Làm sao nó có thể ở hai nơi cùng lúc?”



“Không, không.” Matilda lắc đầu. “Thầy bùa đã mang nó tới thế giới của bạn rồi. Ông ấy bảo với tớ rằng ông ấy đã chôn nó ở đó, để cho tương lai sử dụng. Ông hy vọng như vậy. Bạn dã tìm được nso rồi à?”



“Chuyện dài lắm,” Charlie lật qua lật lại tấm gương trong tay. “Tớ muốn biết lịch sử của nó.”



“Có lẽ một ngày nào đó bạn sẽ biết.” Matilda cầm lấy tay Charlie và kéo nó xuống ngồi cạnh mình trên giường. “Tớ không sao diễn tả được mình hạnh phúc như thế nào khi mình nhìn thấy bạn,” cô bé nhìn sâu vô mắt nó. “Bạn đã không nghe thấy tiếng tớ gọi, khi tớ chạm vô một cửa sổ nhà bạn ở trong bức tranh.”



Charlie lắc đầu lấy làm tiếc. “Có một người phụ nữ tên là cô Alice ở nhà của tớ. Cô ấy là một thiên thần hộ mệnh. Cô đã nghe thấy tiếng gọi của bạn. Cô ấy có tài linh cảm sự việc và gây ảnh hưởng lên mọi người. Bà nội tớ là người hay quát tháo, sưng sỉa, nhưng từ khi cô Alice đến bà ấy cứ lừ đừ và buồn ngủ.”



“Thầy bùa cũng có thể làm được thế,” Matilda nói, “Nhưng ông ta thường không thèm làm. Bà cố của tớ khó tính lắm, cả anh trai tớ cũng vậy. Nhưng thầy bùa thường thích thú theo dõi họ quát mắng người khác.”



Chúng mỉm cười với nhau và Charlie ước gì khoảng khắc này kéo dài mãi mãi. Nó tưởng tượng nó sống ở đây, trong căn phòng không thể tin được này, với những bức tường đá hoa cương xanh lá cây, trải thảm sặc sỡ, êm ái và bày biện toàn đồ đạc đen bóng.



“Bạn tới vì Billy phải không?” Matilda nói. “Tớ biết thế nào bạn cũng tới mà.”



“Đúng là vì Billy.” Charlie tần ngần. “Có lẽ vì bạn nữa. Bạn nghĩ coi, Matilda? Bạn có thể về với tớ không?”



Cô bé cười sáng rỡ với nó nhưng rồi lập tức quay mặt đi, như thể che giấu vẻ buồn bã thình lình hiện lên trên mặt. “Thầy bùa có thể đọc được ý nghĩ của tớ,” cuối cùng cô bé nói. “Ông ta biết là lần trước bạn đã tới đây, cố cứu Billy. Và ông ta cũng biết tớ thường nghĩ đến bạn.”



“Thường hay?” Charlie khoái chí.



Matilda liếc nhìn nó một cái kiêu kỳ. “Chứ tớ còn nghĩ đến ai khác nữa, khi sống cô độc trong cung điện rộng mênh mông này? Bên ngoài gió rít ù ù, không gì tổn hại được, ngoài những sinh vật đen thui, bò nhung nhúc.” Cô bé huých cánh tay Charlie. “Cho nên bạn tuyệt đối không được nghĩ quá nhiều về bản thân mình.”



Charlie cười toe. “Bạn đang nói ... về lão thầy bùa,” nó nhắc cô bé.



Nụ cười của cô bé tắt liền và cô bé bảo, “Một ngày kia, thầy bùa bảo tớ rằng ông ta biết tương lai của tớ, và rằng tớ không bao giờ chu du chin trăm năm về sau để sống ở thành phố của Vua Đỏ. Tớ sẽ cưới anh họ tớ, anh này sống ở nơi tên là Venice. Anh ta rất giàu có và đẹp trai, và khi mười sáu tuổi tớ sẽ đi đến đó bằng thuyền và xe ngựa. Bạn thấy đấy, tó không thể đi với bạn cho dù,” cô bé hạ giọng xuống, “tớ rất ao ước.”



“CHỉ vì lão thấy tương lai của bạn trong quả cầu pha lê nào đó không có nghĩa là điều đó không thay đổi được,” Charlie nói xẵng.



Matilda tuột khỏi giường. “Không có quả cầu pha lê nào hết, Charlie. Đó là định mệnh của tớ. Nào, bây giờ chúng ta tới chỗ Billy. Nếu may mắn thì cai ngục đang uống bia trong nhà bếp. Hắn hay la cà ở đó lâu hơn bổn phận, vì biết rằng Billy không thể trốn thoát được.



“Trốn?” Charlie nói “Billy ở đâu?”



“Trong hầm ngục, nơi họ đã nhốt tổ tiên của bạn, người khổng lồ.”




" Cháu ghé thăm một chút, " Emma nói, luồn người lách ra và phóng vèo xuống cầu thang tiếp theo.



" Vào giờ sớm bảnh mắt này? " Nội Bone nhoài người ra khỏi thanh vịn và ngó chằm chặp xuống hành lang. " Bà Maisie, tại sao cửa trước mở? Có gì thế? "



Trước khi ngoại Maisie đáp lời, cô Alice xuất hiện ở cầu thang trên cùng và gọi xuống nội Bone, " Không việc gì phải lo lắng cả, bà Grizelda. Đi ngủ lại đi, tôi sẽ mang cho bà một tách trà thật ngon. "



" Ờm. " nội Bone trông bộ hoang mang. " Ừ, thế thì được. " Mụ lóc cóc trở lại phòng ngủ của mình và đóng cửa lại. Emma cũng rời khỏi nhà vào đúng giây phút ấy và ngoại Maisie đóng cửa trước. Nửa giây sau Ông cậu Paton mở cửa phòng riêng của ông và ngó lên Charlie hỏi, " Có chuyện....? "



" CÔ Ingledew, Ông cậu Paton, " Charlie đáp.



“Thế cô ấy có vô không?” Ông cậu hỏi một cách thăm dò.



Hơi sượng sùng, Charlie đáp. “Không, ông à.”



“Ra vậy.” Ông cậu Paton thụt đầu vô và Charlie cảm thấy càng lúng túng hơn.



Ở trong gác xép, Billy đã dỗ Rembrandt ra khỏi xó phòng bằng một miếng bánh nướng trái cây, món khoái khẩu của con chuột. Con ruồi đã từ xứ Badlock tới đây trong lòng của Rembrandt đang bay vù vù gần cửa sổ.



“Cô không thích bộ dạng của con ruồi đó tí nào,” Cô Alice vừa nói vừa cố đập nó bằng một cái giẻ lau.



Charlie nhận thấy, trong ánh sáng thích hợp thì con ruồi đó có màu xanh lá cây. Clearwen vỗ cánh đuổi theo nó, nhưng con ruồi đáp ra sau một chồng sách trên kệ, im re luôn.



Cô Alice đi thông báo cho ngoại Maisie biết những gì đã xảy ra và đi lấy cho nội Bone một tách trà. Charlie chạy xuống phòng ngủ của nó để tìm ít đồ cho Billy thay. Ai cũng kết luận là Billy phải ở trên gác xép cho tới khi những sự sắp xếp khác được thực hiện. Tuy nhiên, đó là những sự sắp xếp gì thì chưa ai nghĩ ra. Ngay cả cô Alice cũng rối trí. Và khi Charlie hỏi ông cậu xin lời khuyên thì Ông cậu Paton nhìn Charlie trừng trừng, như thể nó vừa thông báo với ông rằng có một người sao Hỏa đang ngồi ở trong gác xép.



“Ta không biết phải có ý kiến gì,” Ông cậu Paton cuối cùng nói. “Ừ, cứ giữ nó trên gác xép một thời gian đi đã. Dầu gì nó cũng không thể ở đó mãi mãi.”



“Làm sao mà mãi mãi được, phải không Ông cậu Paton?” Charlie nói. “Bởi vì sắp có chuyện gì đó xảy ra. Rất gần thôi. Một biến cố mà sẽ thay đổi mọi thứ mãi mãi.”



“Thật vậy,” ông cậu nó đồng ý, với vẻ không nhiệt tình cho lắm.



Đó là một ngày quái đản, thinh lặng và im lìm. Sương mù đã tiến vô sâu hơn và toàn thành phố đang nín thở. Benjamin cùng ba mẹ nó tới vào giờ uống trà, thế là ngoại trử nội Bone và Billy, tất cả họ quây quần trong nhà bếp để nghe những gì chú Brown kể. Là một thám tử tử có nghĩa rằng chú phải tìm mọi cách để biết sự thật từ những lời đồn đại đầy ắp xung quanh.



Thị trưởng và một số hội đồng viên đã rời thành phố. Một bộ phận cảnh sát không còn thấy ở vị trí của họ nữa, mặc dù cảnh sát viên Singh và cảnh sát viên Wood vẫn được nhìn thấy đi tuần ở trên đường Đồi Cao. Tất cả mọi trường học đều đóng cửa, ngoại trừ học viện Bloor. Bưu điện và tất cả những ngân hàng cũng đóng cửa. Chỉ có một hay hai chiếc xe buýt còn chạy. Không hề có bóng dáng chiếc taxi nào.



“Vậy là chúng ta sẽ phải tự cung tự cấp thôi,” cô Brown vui vẻ nói. “Tôi đã trữ đủ thực phẩm cho nửa tháng, và sương mù không bao giờ kéo dài lâu đến thế.”



Không ai muốn nói rằng loại sương mù này xem ra rất có khả năng sẽ bao phủ vĩnh viễn.



Gia đình Brown ở lại ăn bữa tối, và khi họ ra về, một chiếc giường đã được kê xong cho Billy ở trên gác xép. Với Rembrandt trên gối, chẳng bao lâu Billy ngủ thiếp đi.



Giữa đêm khuya có một tiếng nổ inh tai, rung chuyển ngôi nhà. Tòa nhà lung lay tới tận chân móng. Đồ sành sứ bay ra khỏi tủ và đồ đạc kêu cót két, bị lệch khỏi chỗ.



Lao bổ ra khỏi giường, Charlie thấy ông cậu đang bấu chặt thanh chắn cầu thang ở chiếu nghỉ. Ngoại Maisie và cô Alice xuất hiện ở chiếu nghỉ tầng trên và cũng chạy vội xuống để gặp hai ông cháu. Cửa trước bị mở toang và một luồng gió lạnh lùa thốc vô nhà.



“Động đất hả?” ngoại Maisie kêu lên.



“Hình như sao băng rơi,” Ông cậu Paton nói.



“Chắc là một ánh chớp,” Charlie đoán.



Cô Alice lặng lẽ nói, “Hoặc là tiếng của một con ruồi biến thành cái gì đó lơn hơn.”



Tất cả cùng khiếp hãi nhìn cô, Charlie lào thào, “Con ruồi của Rembrandt!”