Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 19 : Solomon giải cứu

Ngày đăng: 15:24 19/04/20


Ít ai trông thấy cái hình hài đen sải bước trên đường – diện mạo lộng lẫy của một lão người lạ thật chẳng ý nghĩa gì với những sinh vật sống về đêm đang cuống quít tìm lối chạy trốn. Vòng ngọc lục bảo sáng loe lóe trên cổ lão, tấm áo chùng vàng rực đổ xuống như một thác nước, cái áo chẽn màu đen đính ngọc trai và bộ tóc thì dát vàng.



Từ trên nóc nhà số 9, những cặp mắt sang trưng của ba con mèo xuyên qua màn sương, dõi theo bước tiến của lão thầy bùa. Khi lão đi hết con đường, lũ mèo leo xuống đất và bắt đầu đi theo. Không lâu sau lão linh cảm thấy sự hiện diện của chúng, liền quay phắt lại, rít lên một tiếng mà hẳn sẽ làm đông máu bất cứ con mèo nào. Nhưng những con mèo lửa không phải là mèo bình thường. chúng có trái tim và khối óc của loài báo. Ngay khi lão thầy bùa trở về lộ trình của lão, chúng lại bám theo, ẩn trong bóng tối nhưng không bao giờ đánh mất dấu con mồi.



Không lâu sau đã rõ rằng lão thầy bùa đang nhắm hướng đi tới Học viện Bloor. Lũ mèo nhìn lão đi lên những bậc thang giữa hai tòa tháp, băng qua mảnh sân gạch dẫn tới lối vào. Chạy vượt qua dãy cầu thang, đi men theo hông tòa nhà, tới một bức tường đá cao vút thì lũ mèo nhảy phóc lên, nổi rõ ba dáng hình sáng rực trong màn đêm. Chúng đi dọc theo bờ tường, nhìn xuống sân chơi dày đặc sương mù ở bên dưới và ngó ra cánh rừng đằng xa xa, nơi có cổng vòm đỏ uy nghi dẫn vô khu lâu đài đổ nát.



Một chuyển động trên vòm cây mùa đông trơ trụi khiến chúng cảnh giác. Chúng đi sát lại gần nhau hơn, tựa hồ như mỗi con mèo đều biết rằng những giác quan của mình sẽ nhanh nhạy hơn lên khi ở gần các con khác. Trước tiên chúng trông thấy bà ngựa trắng, sau đó trông thấy kỵ sĩ của bà: một hiệp sĩ đội mũ giáp bạc, từng vòng sắt trên bộ áo giáp của ngài lấp lóe trong ánh sáng lù mù của mặt trăng bị sương mù che khuất. cả ba tiếng rừ đồng loạt ngân lên trong cổ họng ba con mèo. Chúng nhảy xuống đất và chạy tới bên cạnh bà ngựa trắng.



Không ai thèm chờ ai trả lời cho tiếng gõ cửa của mình, lão thầy bùa quơ những ngón tay đeo đầy nhẫn ngọc và nhẫn vàng ra giật lấy tay nắm cửa bằng đồng. Rồi vặn mạnh một cú, lão dứt phăng ổ khóa, gây ra một trận mưa dằm gỗ trút rào rào.



Cánh cửa đôi nặng nề mở ra loảng xoảng và lão thầy bùa bước vô tiền sảnh.



Một gã đàn ông to xác mặc pyjama len kẻ ô vuông hoảng vía nằm mọp xuống nền nhà trước mặt lão thầy bùa, run bắn. “Thần đang...ra..., thưa chúa tể...bá tước Harken,” hắn láp ngáp. “Xin thứ lỗi...thần không biết...”



“Đứng lên, Weedon”. Bá tước Harken đá một cú vô be sườn của tấm thân nằm sóng xoài dưới sàn, khiến nó giãy nảy lên một cái.



Gã Weedon bủn rủn đứng lên. Hắn không làm sao bắt mình đứng cho thẳng được, cứ cúi gập thắt lưng, giống như một tư thế cúi chào luộm thuộm. “Chúng thần đã không biết” hắn lắp bắp “mặc dù bà Tilpin luôn dặn chúng thần phải chuẩn bị sẵn sàng”.



“Bọn chúng đâu?” bá tước chất vấn.



“Ở chái phía Tây, thưa chúa tể, đang ngủ.”



“Không ngủ lâu được nữa” lão thầy bùa rít. “Đưa ta tới đó”.



Gã Weedon hơi thẳng người lên một phân và đi chập chững qua cánh cửa chái phía Tây. Hắn giữ cửa cho lão thầy bùa, và lúc bá tước lướt ngang qua, tấm áo thụng vàng quất sượt vô bàn tay hắn, cào rách những khớp đốt ngón tay. Gã Weedon cố kìm nén một tiếng kêu đau đớn rồi cung cúc đi theo sau bá tước.



“Để thần đánh thức họ dậy, thưa chúa tể của thần,” gã sai vặt lầm bầm. “Xin thứ lỗi cho thần, nhưng trời đã quá nửa đêm rồi. cần phải một lúc mới triệu tập được họ.”



“Nhấn chuông. Đánh cồng đánh chiêng lên!” Lão bá tước ra lệnh. “Chắc chắn phải có cồng.” Lão bắt đầu leo cầu thang lên lầu một.



“Dạ, thật sự là có,” gã Weedon nịnh nọt, chân nam đá chân xiêu đi theo tấm áo chùng dát vàng sắc bén.



Chiếc cồng khổng lồ bằng đồng treo trong một khung gỗ sồi bên ngoài thư phòng của ông hiệu trưởng. Một cái dùi đầu tròn bọc da để bên dưới nó. Trước nay gã Weedon chưa bao giờ phải đánh chiếc cồng này. Có lẽ tại hắn không dám. Thực ra, hắn chỉ nghe tiếng cồng duy nhất một lần, khi Manfred, trong một cơn nổi tam bành tuổi dậy thì, đã nện cái cồng thẳng cánh đến mức đầu dùi bị tét ra làm đôi. m thanh dội óc. Vang đi tới từng ngóc ngách của tòa nhà và phải mất mười lăm phút mới lắng đi. Cái dùi đã được sửa lại, và Manfred bị cấm đụng tới món đồ đó bất kỳ lần nào nữa.



Lão thầy bùa khoái chí xem xét chiếc cồng, tuyên bố là nó thích hợp tuyệt đối cho mục đích của lão. “Để tự ta làm”, lão bảo, xoa hai bàn tay vào nhau một cách đắc ý. Nâng cái dùi lên, lão vồng cánh tay dát vàng ra sau và dộng vô cái cồng một lực kinh khủng đến nỗi màng nhĩ bên trái của gã Weedon bị đục thủng vĩnh viễn.



Tiếng cồng rung động cả toàn nhà, lan xuống tới tận dãy phòng của bà bếp trưởng ở dưới lòng đất. Và đối với bà bếp trưởng, âm thanh đó như báo hiệu sự cáo chung của một kỷ nguyên. Bao nhiêu năm nay bà đã giữ thế cân bằng cho Học viện Bloor. Bà tự xem mình là viên đá nam châm của tòa nhà, dõi cắp mắt bảo vệc lên từng đứa trẻ được ban phép thuật, và làm bất kỳ những gì có thể để đảm bảo cho phe của bọn sử dụng thủ đoạn thâm hiểm không chế ngự được bọn kia: lũ trẻ từ chối để cho gia đình Bloor dắt mũi.



Bà bếp trưởng biết không ai giữa khuya thế này mà dám đánh cái cồng đồ sộ ấy. Linh tính mach bảo bà rằng Cái bóng xứ Badlock lại đột nhập vô thành phố. Và lần này rất khó mà trục xuất được lão. Lần này lão đã cài sẵn lực lượng theo đuôi ở trong thành phố. Thậm chí ngay cả lúc bà bếp trưởng đang ngồi sốt ruột suy tính phải làm gì, cũng có những đội quân từ quá khứ đang sống dậy.



“Sao ta vẫn còn ngồi đây?” bà bếp trưởng lẩm bẩm một mình. Bà lôi chiếc va-li từ trong tủ âm tường ra và bắt đầu gói ghém đồ đạc.



Trên mặt đât ở cánh phía Tây, một nhóm người pha tạp đã tập hợp trong thư phòng của ông hiệu trưởng. Bọn họ hết thảy đều đứng, ngoại trừ lão thầy bùa ngồi sau bàn viết của ông hiệu trưởng, và mụ Titania Tilpin đã ngất xỉu khi trông thấy bóng dáng lão bá tước tổ tiên của mụ. Tiến sĩ Bloor mặc áo ngủ đàn ông vải tuýt mà chắc hẳn nếu ở trên sân gôn thì trông rất dị hợm. Manfred xuất hiện trong bộ pyjama lụa màu tím, trước sự bất bình ra mặt của cha hắn, và lão Ezekiel đội nón chụp đầu màu đỏ, vốn chỉ chụp ban đêm, áo jacket kẻ ô vuông và một cái áo ngủ ngắn cũn cỡn (thêm một sự mất mặt nữa đối với tiến sĩ Bloor). Titania, nằm sóng sượt bên cánh cửa, mặc kimono màu đen, trong khi Joshua, với bộ đồ xanh lá cây thường nhật của nó đang cố lay cho mẹ nó tỉnh lại, bằng cách vỗ vỗ vào má mụ ta.



“Thằng ngu” bá tước Harken nói. “Vậy không ăn thua.”



“Weedon, lấy một ít nước,” tiến sĩ Bloor ra lệnh.




"Đẹp quá". Bà Kettle chạm vô những vòng tròn bạc. "Hèn chi, thật dễ thấy tại sao Olivia muốn mặc cái thứ bắt mắt loại này."



"Cái này nhẹ như lông chim vậy đó" Emma nói. "Nhưng coi bộ Olivia bị chìm lút dưới sức nặng của chiếc áo kia, như thể nó đính toàn đá".



"Quỷ dữ luôn nặng" bà Kettle tuyên bố "cái thiện luôn dễ chịu khi mặc"



Bà Kettle trông mạnh mẽ và vững chãi, khiến mọi nỗi băn khoăn e ngại trong Emma lập tức bị cuốn trôi, cô bé thấy mình mô tả việc sẽ tới nhà Olivia vào buổi sáng để tráo áo gi-lê trong khi Olivia đang thay đồ. "Đó là khoảnh khắc duy nhất trong ngày Olivia cởi nó ra" Emma nói.



"Chúc cưng may mắn" Bà Kettle đặt tay lên vai Emma và emma cảm thấy sức mạnh của tất cả những thế hệ thầy pháp thợ rèn thời xưa đang truyền cho mình lòng can đảm.



"Cảm ơn, bà Kettle. Chúc bà ngủ ngon"



"Chúc cưng ngủ ngon, cưng yêu. Giờ ta phải đi về để lấy con trăn yêu quý của ta đây.



Trong khi Emma trở lại giường, bà Kettle lướt xuống cầu thang. Bà bước nhẹ qua phòng khách, nơi Dagbert Endless đang ú ớ ngủ mê, và đi vô nhà bếp.. Cửa sau mở ra một cái sân nhỏ. Bà Kettle bước ra ngoài trời mù sương và đóng cửa lại sau lưng. Xong, bà phóng chạy qua con hẻm về hướng sân nhà mình. Trên đường bà phải đi ngang qua sân sau tiệm Tượng Đá và những gì đập vô mắt khiến bà lạnh cả người.



Trong sân đầy ắp những sinh vật to phành phành bằng đá, những con vật gớm ghiếc có ngà, mũi to bạnh, mắt giấu nhẹm dưới nùi đá nhăn nhúm và hàm răng nhọn hoắt chĩa ra khỏi hàm dưới. Trí tưởng tượng méo mó nào có thể làm hiện ra những con thú dữ khủng khiếp nhường ấy? Bà tự hỏi. Một sinh vật trong đám quay đầu qua, bà Kettle bỏ chạy. Eric Shellhorn, bà nghĩ. Chính thằng này đang làm cho đám tượng sống dậy.



Khi vô tới tiệm nhà mình, bà Kettle không dám bật đèn lên. Con trăn xanh da trời cuộn mình bên dưới một cái bàn ở nhà sau. Anh chàng rõ ràng đang cố tránh càng xa cửa sổ càng tốt. Những lưỡi lửa từ các đống lửa ngoài đường tắm đẫm tiệm trong một quầng sáng sôi sục màu cam, và bóng những hình hải nhảy đong đỏng không ngớt băng qua cửa sổ.



"Lại đây, cưng yêu!" bà Kettle cúi xuống vỗ về con rắn từ chỗ nó đang núp. Cậu chàng cuốn lên cánh tay bà và quấn vòng quanh cổ bà. "Tốt nhất chúng ta chuồn nhanh lên" bà thì thầm.



Khi bà bước vô con hẻm, hai bóng người hiện ra trong sân tiệm Tượng Đá: Melmott, thợ đục đá, và một tên lực lưỡng mặc áo lưới. Bà Kettle hy vọng bọn chúng không trông thấy mình, nhưng Melmott đã nghe thấy tiếng sỏi lạo xạo dưới chân bà, và nhìn ra hướng của bà



"Á! Bọn ta có gì ở đây thế này?" gã cất giọng đùng đục, ác nghiệt.



"Ối trời" bà Kettle thì thầm. "Solomon làm gì đi". Bà giật đuôi con trăn, hy vọng chú chàng hiểu.



Solomon làm liền. Trong hai giây, chú ta tuột một mạch từ đầu xuống chân bà Kettle, rồi cả hai cùng biến mất.



"Chết tiệt!" gã Melmott nguyền rủa.



"Chúng đâu rồi?" tên áo lưới quát tháo.



Bà Kettle cố giữ bình tĩnh. Trong khi bọn đàn ông dáo dác quay đầu nhao nhác tìm kiếm, bà rón rén đi qua bọn chúng.



Một con mèo từ trên tường nhảy phịch xuống ở quãng quã của con hẻm, bọn kia liền chạy về hướng có tiếng động, miệng la hét "Bắt được rồi! Mày đừng hòng lừa được chúng ông"



Bà Kettle đẩy mạnh con trăn vô hình cho nó quàng trở lên cổ mình và tất cả đi tới tiệm sách. Vừa đâm bổ vô nhà bếp, bà tông ầm vô Dagbert Endless, thằng này đang vô bếp lấy nước uống. Nó định thét ầm lên thì một bàn tay vô hình ụp chặt lấy miệng nó, và một giọng quen thuộc cất lên, "Suỵt, cưng yêu! Là ta đấy mà, bà Kettle. Tích tắc nữa cưng sẽ trông thấy ta ngay."



Dagbert ngó không gian trước mặt nó đang từ từ bị choán giữ bởi thân hình chắc khỏe của bà Kettle. Ở trên vai bà nằm một con rắn lớn màu xanh da trời có lông chim ở trên đầu.



"Đây là Solomon" bà Kettle giới thiệu. "Chú ta đẹp chứ nhỉ?"



Dagbert gật đầu. Thằng này kinh ngạc đến nỗi á khẩu luôn.