Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 9 : Mẹ đỡ đầu giả mạo

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Bà bếp trưởng sực nhớ ra tối nay tới phiên mình trực. Bà có nhiệm vụ phải dọn bữa tối cho gia đình Bloor và những vị khách mờ ám của họ. Bánh nướng nhân cá được nhắc tới.



"Đó là việc vặt - để bà Weedon lo liệu là được rồi," bà bếp trưởng nói một mình khi đi ngang qua căn-tin xanh da trời. "Tốt hơn hãy báo bà ta một tiếng."



Bà bếp trưởng hối hả đi qua căn-tin xanh lá cây, nơi mụ Weedon thường ngày hay túc trực, gà gật bên cạnh dàn bếp hoặc đang đọc truyện ly kỳ giật gân. Nhưng hôm nay chẳng thấy mụ ta đâu. Mãi cuối cùng bà bếp trưởng mới tìm thấy mụ ngoài sân nhà bếp, đang cho một con chó trông hung hãn ăn.



"Bertha, bà đang làm cái quái gì thế?" bà bếp trưởng thét lên khi con vật nhe răng, sấn tới bà.



"Tội nghiệp, nó đói," mụ Weedon bảo. "Một con vật bị lạc. Tôi thích nó quá. Ở đây đầy đồ ăn thừa ra đấy."



Bà bếp truờng từ lâu đã thôi không thắc mắc tại sao mụ Weedon lúc nào cũng chanh chua đanh đá như vậv. Bà kết luận rằng người phụ nữ đáng thương này không thể cưỡng lại được. Rốt cuộc thì làm vợ gã Weedon đâu phải là một chuyến đi picnic.



"Sao bà ăn mặc bảnh chọe thế? Bà đang trực cơ mà" mụ Weedon nói, nhìn cái mũ len của bà bếp trưởng.



"Tôi nào có mặc đẹp gì," bà bếp trưởng nói, "nhưng như bà vừa mới chỉ ra đấy, đúng là đang phiên trực của tôi nhưng tôi phải ra ngoài, cho nên tối nay bà sẽ phải nấu bữa tối."



Mụ Weedon chống hai tay lên cái hông rộng bành của mụ và dậm châm. "Sao lại là tôi? Bà định đi đâu?"



"Tôi đi thăm một người bạn bị ốm. Bà ấy ốm nặng lắm. Không có ai chăm sóc bà ấy cả. Thôi, tạm biệt bà!" Bà bếp trưởng ngại ngùng bước vòng qua con chó, lúc này đã sục mũi vô cái tô đồ hầm nguội ngắt, và chạy vù lên dãy cầu thang đá dẫn ra đường. Mặc kệ tiếng thét inh ỏi của mụ Weedon, bà tất tả hướng tới đường Đồi Cao rồi rẽ vào khu phố cổ của thành phố. Khi đi tới ngõ Nhà Thờ Lớn, bà thở phì phò và nghĩ đến một tách trà ngon lành, nhưng khi bà đến gần tiệm sách thì tách trà đó biến mất hoàn toàn khỏi tâm trí của bà.



Có hai bóng người bước ra khỏi tiệm sách, đóng sầm cửa lại sau lưng chúng, đến nỗi chuông reo ầm lên và miếng kính trên cánh cửa rung rinh báo động. Cặp đôi lạ mặt nọ trông chẳng mang dáng dấp gì là khách hàng bình thường của cô Ingledew. Một tên mặc áo luới và quần rằn ri, tên kia mặc đồ thể thao màu đen rộng thùng thình, có mũ trùm. Cả hai đang cười ha hả với điệu bộ thật khó ưa.



Bà bếp trưởng vội nép vô tường khi bọn chúng huỳnh huỵch đi ngang qua, nói chuyện thậm thà thậm thụt với nhau. Bà không thể nghe thấy chúng nói gì, chỉ hy vọng chúng đừng nhìn thấy mình, nhưng rủi làm sao, tên áo lưới bắt gặp cái mũ đỏ tươi của bà. "Bà cố nhìn gì hả, bà cố?" hắn hét lên vói giọng cợt nhả.



Bà bếp trưởng chỉ muốn đáp lại rằng bà còn trẻ lắm, còn lâu mới là bà cố, và cái kẻ buông lời phỉ báng bà là ai mà chỉ mặc độc có tấm áo lưới trong đêm tháng Ba lạnh như cắt này. Nhưng bà nghĩ lại và thấy nên ngậm miệng thì hơn.



Hai gã đàn ông vẫn chạy tiếp, cười khằng khặc, và cuối cùng quẹo vô đường Piminy. "Lẽ ra mình nên biết trước mới phải," bà bếp trưởng vừa lẩm bẩm vừa lao vội về phía tiệm sách, chợt bà nghĩ tới bà bạn của mình, bà Kettle, người đáng tín duy nhất ở đường Piminy - lúc này cô độc hết sức, trên một con đường toàn những bọn lừa đảo, bọn sát nhân và những bọn còn tệ hơn thế.



Khi bà bếp trưởng chạy tới tiệm sách, bà thấy tấm biển "Đóng cửa" đã bị giật xuống, và ngó vô bên trong qua cửa sổ, bà hoảng hốt trước một hiện trường bị phá phách tanh bành. Hàng đống sách quý nằm vương vãi dưới sàn. Hai kệ sách đổ sập xuống, chiếc thang vốn dùng để leo lên lấy sách ở tầng trên cùng bị gẫy và ngăn kéo để tiền bị ụp nghiêng qua bên. Cô Ingledew đang đứng dựa vô quầy, hai tay bưng lấy mặt trong khi cháu gái của cô, Emma, quỳ dưới sàn, cố vuốt cho thẳng những trang giấy khổ lớn của một quyển sách bọc da.



Bà bếp trưởng rung chuông và gõ cửa cấp tập.



"Julia!" bà gọi. "Julia, mở cửa cho tôi."



Cô Ingledew hạ tay xuống, để lộ gương mặt tèm lem nước mắt, và lảo đảo leo lên bậc cấp ra cửa, mở khóa bằng những ngón tay run lẩy bẩy.



"Ôi cưng!" bà bếp trưởng kêu lên, đi vô tiệm. "Chuyện quái gì xảy ra ở đây vậy?"



"Tôi không biết bắt đầu kể từ đâu," cô Ingledew nói. Cô đóng cửa, cài then rồi theo bà bếp trưởng đi vô tiệm.



Đúng lúc đó, Olivia Vertigo hiện ra khỏi tấm rèm đằng sau quầy. Con bé đang bưng một cái khay gồm ba chiếc cốc lớn và một đĩa bánh bích quy. "Chào bà bếp trưởng," con bé mùng rỡ. "Bà có muốn uống ca-cao không? Chưa tới một giây đâu."



"Thế thì hay lắm, cưng," bà bếp trưởng nói, ngó quanh tiệm, nỗi kinh hoàng của bà tăng lên theo từng giây.



Olivia đặt cái khay lên quầy và rút lui vô sau tấm rèm, miệng nói, "Có ngay."



"Tôi có thể giúp gì được nào?" bà bếp trưởng hỏi. "Ôi trời ơi. Những quyển sách tuyệt vời. Cô có gọi cho cảnh sát chưa, Julia?"
Bây giờ Olivia thấy mình đi quá khỏi khúc quẹo để về nhà và cứ đi tiếp về phía công viên. Con bé rẽ vô góc đường Công Viên, miệng lầm bầm, "Số mười lăm. Những ngôi nhà trên đường này khuất một nửa sau những hàng rào cao và những cây bụi mọc um tùm. Cánh cổng nhà số 15 đã long hết bản lề và dựa thẳng đứng vô hàng rào. Lối đi mọc đầy rêu mốc và lớp sơn trắng trên cửa đã bong tróc cả. Dây leo che kín những bức tường và bò ngang khắp cửa sổ.



Cô Alice Angel từng sống ở đây. Cô đã quay trở lại như Manfred nói? Ngôi nhà im lìm trong hoang lạnh. Olivia bước lên lối đi rêu phong và rút sợi dây xích gỉ sét treo tòng teng bên hông cánh cửa ra. Một tiếng chuông thánh thót phát ra đâu đó trong nhà.



Olivia chờ. Một bức rèm đăng ten trong khung cửa sổ ngó ra vườn bị giật phắt ra, và một giọng nói thì thầm vọng khỏi căn nhà. Đó là giọng nói hay là tiếng xào xạc của những cây thường xuân?



"Vô đi, cưng."



Olivia vặn nắm đấm cửa. Nó xoay trơn tru và cánh cửa kẹt mở ra. Con bé bước vô một hành lang lạnh thấu xương. Lẽ nào cô Alice sống ở đây? Ngôi nhà toát lên cảm giác như thể đã bị bỏ hoang lâu lắm rồi. Ở cuối hành lang, một cánh cửa mở vô phòng khách của cô Alice. Dây leo bâu kín các cửa sổ khiến cho căn phòng tối đến độ Olivia hầu như không nhìn thấy đồ đạc. Trời lạnh đến mức hơi thở của con bé đông lại thành những sợi mây li ti.



Olivia phà hơi thở vô hai bàn tay. Dù đeo găng mà tay con bé vẫn lạnh cóng.



“Cô Alice? Olivia ngập ngừng.



"Lại đây, cưng!"



Giọng nói khiến Olivia giật nảy mình. Nó hé dòm vô góc nhà mà từ đó giọng nói vọng ra. Có một phụ nữ ngồi trong ghế bành. Tóc bà ta thẳng và trắng, giống như tóc cô Alice. Mặt bà ta tái nhợt và mắt hơi xanh lục. Đúng là cô Alice, tuy nhiên... Gưong mặt đó chao đi và biến mất. Một khoảnh khắc sau, mắt mũi của gương mặt hiện rõ lên và rồi lại tan đi, chắp vá.



"Cô Alice, có phải là cô thật không?" Olivia hỏi, cổ họng nó hít vô luồng khí lạnh.



"Dĩ nhiên rồi, cưng." Giọng cô Alice chỉ như một lời thì thào. "Từ lâu ta không được khỏe. Lại đây hôn ta nào."



Olivia do dự.



"Gì thế? Con không sợ ta đấy chứ?" giọng cô Alice bây giờ mạnh hơn nhưng... phải đó là giọng nói của cô?



Olivia bước tới chiếc ghế bành. Con bé ngó xuống người phụ nữ đang ngồi tựa vô một chiếc gối đệm xanh da trời, phai màu. Đúng là cô Alice, nhưng sao mà cô gầy gò đến thế.



"Ôi, cô Alice, con nhớ cô quá!" Olivia quỳ xuống và hôn gò má lạnh ngắt. Lập tức, trái tim con bé dâng tràn tình yêu đối với người phụ nữ hom hem này, người mẹ đỡ đầu luôn theo dõi nó từ xa.



"Ta có một món quà tặng con." Những ngón tay nghều ngoào ấn vô cánh tay Olivia. "Nó ở trên bàn đằng kia kìa. Tới lấy đi, cưng."



Olivia thấy một cái gói màu trắng ở trên bàn - giấy lụa gói quanh một vật gì mềm mềm và phát sáng. Con bé bóc giấy gói và kéo ra một chiếc áo gi-lê nhung đen đính đầy những vòng tròn bạc sáng như gương."Ôi, đẹp quá chừng!



"Mặc vô đi."



Olivia cởi cái áo khoác jean của nó ra và mặc cái áo lấp lánh đó vô. Ánh bạc chói mắt đến nỗi con bé không nhìn thấy cái áo, rồi không hiểu vì lý do gì đó, sợi vải giống như da thuộc đó cứ thít chặt lấy vai nó, hệt như đá đè trĩu xuống. Tuy nhiên con bé không làm sao cởi cái áo ra được.



Cách đó ba trăm dặm, cô Alice Angel đang cắm hoa ở đằng cuối tiệm hoa của cô. Đây là công việc mà cô rất thích làm vào sáng sớm Chủ nhật, khi tiệm hoa vẫn còn đóng cửa. Ngay khi bó xong hơn một chục bó hoa nhỏ, cô sẽ đem chúng ra trưng trên một cái quầy ở bên ngoài, ở đó cô sẽ chờ dưới một mái che màu trắng để bán hoa cho những người đi thăm bà con hay bạn bè trong bệnh viện.



Cô Alice chỉ bán bông màu trắng. Xung quanh cô bao nhiêu là bình bông cao cổ với những cánh hoa mỏng manh sắp xếp từ màu kem đậm nhất cho đến màu trắng ngà nhất. Trong tiệm lạnh nhưng cô Alice liên tục vận động cho ấm, cô đi len lỏi qua rừng hoa của mình, ngắt lá, sửa cành, kết và gói hoa. Hương hoa thoang thoảng khiến cô muốn cất tiếng hát.



Một cánh hoa rơi xuống cánh tay cô, lại thêm một cánh nữa. Cô Alice ngừng tay ngước mắt lên và sửng sốt vì những bông hoa tươi thắm của cô đang dần héo hết lượt. Một bông hồng trắng rũ oặt trên cuống của nó, rồi một bông nữa, bông nữa. Những cánh hoa bắt đầu rơi rụng như bông tuyết. Chúng trở thành một cơn bão trắng, dội ào xuống người cô Alice những bông hoa héo queo. Cô buông rơi bó hoa đang cầm và úp hai bàn tav vô mặt.



"Olivia!" cô kêu lên. "Chuyện gì xảy ra với con vậy?"