Đại Mạc Thương Lang
Chương 140 : Sương giá
Ngày đăng: 17:42 19/04/20
Ảnh hưởng của lớp
sương mù khiến ban đầu chúng tôi cứ tưởng không gian bên ngoài phòng sắt rất rộng. Sở dĩ có cảm giác đó là do khoảng cách nhìn không được xa,
không thể nhìn thấy điểm cuối của luồng sáng, tôi và Vương Tứ Xuyên run
lập cập đi men theo tấm lưới sắt mà chúng tôi đã đi qua lúc trước, đi
được một đoạn thì nhìn thấy cánh cửa sắt của căn buồng số hai.
Vương Tứ Xuyên vừa đến liền tập trung chú ý vào những cái bóng đen sì ở trong những khối băng bên trong cái hố xi măng, cậu ta dừng lại định chiếu
đèn để xem cái bóng kia là cái gì, thế nhưng những lớp băng đó khá đục,
lại thêm có lớp sương mù che phủ nên chúng tôi không thể nhìn rõ vật bên trong lớp băng là cái gì.
Tôi vừa đi vừa xem, lần này xem xét kĩ càng hơn lúc mới đến, trong lòng vẫn băn khoăn không hiểu rốt cuộc quân Nhật đã làm gì ở đây. Nhiệt độ ở đây rất lạnh, chắc chắn lạnh hơn nhiệt độ dưới nước, tôi khẳng định ở đây có máy nén khí lạnh. Hồi đó chưa có
khái niệm tủ lạnh, máy nén khí lạnh thường được dùng trong kho lạnh chứa hàng, nơi này rất giống một cái kho lạnh bảo quản đồ.
Vương Tứ
Xuyên bảo tôi đi vào phần đường gờ nổi lên thoai thoải trên bức tường
của hố xi măng, đường gờ này chạy thẳng vào trong khối sương mù, tôi
phải giữ thăng bằng khi đi trên nó nhưng cảm giác dưới chân chân thực
hơn đi trên mặt băng nhiều. Lúc mới đi trên đó, tôi phải giữ thăng bằng
giống như đi trên tấm lưới sắt, phải đi chậm chậm từng bước, cứ thế tiến sâu vào đám sương mù.
Việc rời tấm lưới chắn ở bên dưới khiến
tôi có cảm giác chông chênh, bởi vật đó giống như là sợi giây sinh mệnh
của tôi, rời xa nó khiến tôi có cảm giác bất ổn.
Thời gian dường
như kéo dài đến vô tận, có thể vì lúc đó rất lạnh, hoặc do tôi quá căng
thẳng, phải tập trung tinh thần để đi trên đó, chúng tôi đi rất chậm,
chúng tôi cũng không biết mình đã đi hết bao lâu, chỉ cảm thấy con đường sao dài quá, sương mù xung quanh đặc quánh, nhiệt độ lại rất lạnh,
chúng tôi không thể nói chuyện gì.
Tôi cứ thế không nói gì với Vương Tứ Xuyên, một lúc sau bỗng cảm thấy hoang mang.
Cuối cùng Vương Tứ Xuyên dừng lại, kì thực cậu ta đi ngay sau tôi, nghe
tiếng gọi tôi cũng dừng lại. Lúc đó, tôi mới phát hiện ra bên trong đám
sương mù xuất hiện từng hàng bóng đen rất to, cao tầm nửa thân người.
Chúng tôi đi nhanh đến đó, mau chóng nhận ra rằng đây chính là điểm
cuối, những chiếc bóng đó là cỗ máy mà tôi cũng không biết là loại máy
gì đang dựng ở bức tường, bông tuyết đóng đầy bên ngoài. Nhiều đường ống vươn ra từ thân máy, chọc xuống cả bên dưới đám báng ở trong hố bê
tông.
Phía trên những cỗ máy đặt rất nhiều biển ký hiệu, Vương Tứ Xuyên cầm mấy tấm lên gõ cho lớp băng bám bên ngoài rơi ra thì phát
hiện thấy trên đó viết toàn con số, đại loại như: “Lạnh - 03 - A”, biển
ký hiệu xếp thành một hàng dài. Trên đường ống cũng in những dãy số khá
phức tạp, dường như giải thích rằng đường ống nào có trách nhiệm làm
lạnh cái hố này.
Tôi đoán, nơi này đang dùng máy nén khí lạnh,
chúng tôi lại đi tiếp, cảm giác ở đây lạnh không thể chịu nổi, chẳng mấy chốc, hai hàm răng của tôi đã va vào nhau lộp cộp.
Đi vài bước
nữa, chúng tôi lại thấy một cánh cửa lớn ở trên bức tường xi măng, nó
cũng có then cài, một thanh sắt dày sụ chèn ở giữa, trên cửa bám đầy
bông tuyết. Vương Tứ Xuyên đá vào nó mấy cái, cánh cửa vẫn sừng sững
không chuyển, xem ra nó rất dày, tôi nhìn kĩ thấy khá quen thuộc, thế
nhưng lúc đó không nhớ ra đã gặp ở đâu. Cho đến lúc Vương Tứ Xuyên cào
mấy miếng băng tuyết bên trên nó ra, mấy chữ bên trong lộ ra tôi mới sực nhơ lại.
Trên cánh cửa có in mấy chữ số rất to: “Chiến lược - 53”
Nó giống hệt cánh cửa chúng tôi đã đào thấy bên dưới bãi đá ở chỗ dòng
sông ngầm mà lúc ấy có người đã đoán phía sau nó là kho chứa đạn dược.
Tôi nghĩ bụng lẽ nào đằng sau cánh cửa này cũng là kho chứa đạn? Nhưng sau đó lại nghĩ không thể nào có chuyện đó.
Thật may, cánh cửa mở ra một khe vừa đủ một người lách qua, cánh cửa bị kết
đông lại thành một khối với lớp tường bê tông dày bên trên, phần trục
bánh xe xoay để mở cửa bị đóng từng tảng băng tuyết dày cộp, có muốn đẩy rộng cánh cửa ra cũng không thể.
Tôi hít một hơi rồi cùng với
Vương Tứ Xuyên lách người qua cửa như cá lách lưới, nhiệt độ phía trong
cánh cửa cao hơn ở bên ngoài một chút, nhưng lớp sương mù lại dày đặc
hơn, đi vài bước vào trong, tôi cảm thấy mọi thứ có vẻ ổn hơn. Chúng tôi tập trung quan sát, sau cánh cửa là một con đường rất cao được lót bằng thép tấm, bề mặt của nó bằng phẳng hơn nhiều so với bên ngoài cửa, nó
rộng khoảng năm mét, chắc đây là con đường chuyên dụng cho việc vận
chuyển đồ vật nặng. Chúng tôi đi sâu vào bên trong, mùi hoen rỉ của sắt
thép bốc lên nồng nặc, cảm giác dưới chân chông chênh không vững.
Lối đi không biết dẫn tới đâu, phía trước tối mò mò, ánh đèn chiếu đi mất
hút vào bóng đêm khiến tôi cảm thấy rờn rợn, tôi lưỡng lự không biết nên đi tiếp hay quay lại, nhưng đúng lúc đó Vương Tứ Xuyên phát hiện ra
điều gì đó, cậu ta gọi tôi và chỉ tay lên tường. Tôi quay lại chiếu đèn
lên, thì nhìn thấy rất nhiều vết tay người bám làm mòn lớp rỉ trên tường đi, các dấu vết để lại rất rõ, lớp rỉ sắt rơi xuống đầy mặt sàn. Chúng
tôi cũng thấy dấu chân người đầy trên sàn, lại là dấu chân của hai
người.
Vết chân này khá mới, tôi lập tức tỉnh táo hẳn, xem ra chúng tôi đã lần ra dấu vết của Viên Hỷ Lạc và Trần Lạc Hộ.
bóng.
Tôi vừa lẩm bẩm chửi tục vừa dụi mắt cho khỏi dặm, mắt mũi
mờ tịt, nhìn theo hướng cậu ta vừa chạy, phút chốc đã chẳng thấy bóng
dáng của cả hai người kia đâu. Tôi vừa gọi to: “Vương Tứ Xuyên!”, vừa
định tiếp tục đuổi theo họ.
Nhưng đúng lúc đó, chẳng biết ma xui
quỷ khiến thế nào tôi lại đưa mắt nhìn quanh khắp lượt, rồi tôi bỗng
sững người, mắt trân trân nhìn vào một điểm.
Tôi nhìn thấy bên dưói lớp vải bạt mà Vương Tứ Xuyên vừa lật lên, hiện ra một thứ khiến tôi vừa kinh ngạc vừa thích thú.
Ban đầu tôi vẫn chưa chắc chắn lắm, đợi đến lúc phủi xong lóp bụi trên bề
mặt và tiến lại kéo hết lớp vài bạt ra, tim tôi mới đập mạnh, thứ tôi
nhìn thấy dưới lớp vải bạt là một chiếc sa bàn quân dụng, đó là một mô
hình thu nhỏ làm bằng gỗ của con đập nhưng đã bị đè hỏng được gắn trên
chiếc sa bàn, ngoài ra còn có mô hình của máy bay Shinzan và biển nước
bên dưới con đập. Bốn bề xung quanh là cần cẩu, khung giá súng được
trang trí tỉ mỉ, tất cả đều hiện lên rất rõ ràng, chi tiết.
Sa
bàn là mô hình thu nhỏ dựa trên một bản đồ địa hình, ảnh chụp từ máy bay hoặc địa hình thực tế, sau đó người ta dùng các vật liệu như bùn đất,
các mô hình trò chơi chiến tranh và các vật liệu khác để dựng khung làm
nền tạo thành mô hình đó.
Mô hình sa bàn này chắc được làm vào
giai đoạn cuối khi lắp ráp chiếc máy bay, nó được dùng để mô tả quá
trình lắp ráp chiếc máy bay, rõ ràng để hoàn thành việc lắp ráp một
chiếc máy bay ở dưới này không thể dễ dàng như lắp ráp trong xưởng được.
Sa bàn này có thể coi là một hợp thể hoàn mĩ vừa mô tả một cách tổng quan
lại rất tỉ mỉ, tinh tế, các mô hình đơn thể đều thô mộc một cách khó
tin, toàn bộ được chạm khắc từ các đoạn gỗ hoặc tấm gỗ một cách vô cùng
đại khái, nhưng phía trong những nét sơ lược đó lại che đậy những nội
dung vô cùng kinh ngạc. Thời gian đã qua khá lâu, có thể kí ức của tôi
không thể nhớ hết, tôi chỉ nhớ rõ nhất là hình ảnh con đập đã bị phá hủy và một bên của dãy núi.
Nhìn toàn bộ địa thế trong sa bàn có thể thấy được diện mạo của dòng sông ngầm bên dưới dãy núi, do có một lượng lớn nước từ khắp rừng già đổ về nên độ rộng của dòng sông thật đáng
ngạc nhiên, hơn nữa với nguyên bản của địa hình địa mạo phân chia có
nhiều khe suối đã dội một lượng nước lớn vào khiến cho lòng sông nổi lên khá bằng phẳng. Quân Nhật đã đổ lượng lớn sắt thép và bê tông xuống đó, đắp thành một bệ đỡ trên không khổng lồ.
Bên dưới bệ đỡ có các
mương nước, được chắn bởi các màng lưới có chức năng lọc nước, những
dòng mương này có thể dẫn nước xuống dòng sông, trên bãi đất đặt rất
nhiều trang thiết bị, trong số đó, có một thứ khiến tôi rất kinh ngạc là ba dải đường sắt trên không, chúng nghiêng nghiêng bò hướng lên không
trung, tựa một khẩu pháo cao xạ ba nòng, nhắm thẳng về mục tiêu đâu đó
trên bầu trời, đó là loại đường ray ba chạc, toàn bộ kết cấu của nó
giống như cột điện cao thế đặt ngược, còn chiếc Shinzan đậu ngay phía
dưới cùng cùa con đường sắt đó, điểm cuối cùng của đường sắt cũng là
điểm cao nhất của đưòng sắt, cao vừa gấp rưỡi con đập.
Phía trên
con đập có rất nhiều chòi canh, công sự tránh đạn, xe cẩu, đường ray cỡ
nhỏ. Lúc chúng tôi đến có nhìn thấy dòng nước chảy bên dưới lớp lưới
chắn trong vắt, thậm chí tôi còn nhìn thấy rất rõ cả cái bể lắng cặn bên dưới mà Vương Tứ Xuyên đã kể.
Nhìn những trang thiết bị để nơi
đây, tự nhiên tôi toát hết cả mồ hôi, tuy trước đây cũng đoán vậy, nhưng đến lúc này tôi mới thực sự khẳng định, bọn Nhật lùn đích thị muốn cho
chiếc Shinzan cất cánh lên trên không gian dưới vòm động đen ngòm kia.
Trong khoảng thời gian đại chiến thế giới thứ hai, phát xít Nhật đã từng cho
bay thử nghiệm loại hàng không mẫu hạm, tuy lúc đó tôi không hiểu tường
tận, nhưng từ thiết bị cất cánh với kết cấu phức tạp được lắp đặt tiên
sa bàn thì rõ ràng chiếc Shinzan đã cất cánh ở đây, phát xít Nhật cho
rằng khả năng này hoàn toàn có thể thực hiện được.
Tôi nhớ lại
xác chiếc máy bay cỡ nhỏ chìm trong nước, lòng dấy lên nghi hoặc, phát
xít Nhật đã làm bao nhiêu công tác chuẩn bị như vậy, thì chiếc Shinzan
rốt cuộc đã cất cánh bay thử hay chưa? Hơn nữa, tại sao bây giờ tôi vẫn
thấy dưới đập nước chất nhiều bao tải giảm xóc đến vậy? Tôi cũng chưa
từng nhìn thấy ba đường ray sắt như vậy bao giờ.
Nghĩ đến đó, đột nhiên một ý nghĩ lóe lên trong đầu, tôi cảm giác như có một luồng điện giật rần rần từ gáy chạy xuống tận chân.
Tôi nhớ lại hình dạng của cái xác máy bay, đặc biệt là phần đầu của nó, tôi còn nhớ rất rõ ràng, phần đầu của nó hướng về phía con đập.
Trời!
Điều đó có nghĩa là tàn tích chìm trong dòng nước của chiếc Shinzan không
chỉ đã cất cánh bay đi mà nó còn bay trở lại đây từ vực thẳm sâu hút.